Bản án 838/2020/HS-PT ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 838/2020/HS-PT NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 580/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Đặng Minh T2 cùng 03 đồng phạm, do có kháng cáo của bị cáo Võ Thị Mỹ T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long A.

- Bị cáo có kháng cáo: Võ Thị Mỹ T, tên gọi khác: Thảo, sinh năm:

1991, tại Cần Thơ, giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức H, tỉnh Long A; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; con của ông Võ Thành PH, sinh năm 1950 và bà Hà Thị Á, sinh năm 1954; bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2020 đến nay (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Võ Thị Mỹ T: Luật sư Hoàng Văn Mão, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị (không triệu tập):

1. Đặng Minh T1, sinh năm: 1993, tại Long A, giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức H, tỉnh Long A; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Tài xế; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Phát Lợi, sinh năm 1969 và bà Huỳnh Thị Trắng, sinh năm 1968; có vợ là Phan Thị PH Dung, sinh năm 1994; con có 01 người, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2019 đến nay.

2. Nguyễn Minh T3, tên gọi khác: Chỉ, sinh năm: 1985, tại Long An, giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức H, tỉnh Long A; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Sửa xe; trình độ học vấn: 10/12; con của ông Nguyễn Văn Chớ, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 1963; có vợ là Cao Thị Hạnh, sinh năm 1984; có 02 người con sinh năm 2007 và năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 24/7/2003, Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long A tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”; ngày 26/6/2012, Ủy ban nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A Quyết định đưa vào trung tâm chữa bệnh, thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 05/7/2014. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2020 đến nay.

4. Phạm Thị Diễm H, tên gọi khác: Mon, sinh ngày 11/11/2003, tại Bến Tre, giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Tân An, xã Tân Xuân, huyện Ba T7, tỉnh B; nơi cư trú: Ấp Mới 1, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức H, tỉnh Long A; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; con của ông Phạm Ngọc Hiệp, sinh năm 1972 và bà Võ Thị Hiếu, sinh năm 1970; bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2020 đến nay.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (không triệu tập):

1. Ông Dương Văn U, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Ấp Bình Hữu 1, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức H, tỉnh Long A 2. Bà Huỳnh Thị T5, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức H, tỉnh Long A.

3. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức H, tỉnh Long A.

- Người làm chứng: Ông (bà) Nguyễn Công T6; Mai Nguyễn Tường H;

Võ Thành Đ; Lê Trung H2 và Quách Thị Thùy D (không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 03/01/2020, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Long A phối hợp với Công an huyện Đức H kiểm tra xe ô tô biển số 51G-795.03 dừng trước cửa hàng Bách Hóa Xanh, thuộc Khu phố 2, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức H, tỉnh Long A phát hiện 03 đối tượng, gồm: Đặng Minh T2, Phạm Thị Diễm H và Võ Thị Mỹ T đang cất giấu 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy trên nắp khay chứa đồ phía sau cần số xe và 04 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy để trong túi đeo màu đen treo phía sau ghế tài xế.

Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Long A tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Thị Mỹ T, tại số 603A, ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức H, tỉnh Long A, thu giữ 02 gói nylon màu trắng hàn kín chứa tinh thể màu trắng, nghi là ma túy.

Tại Kết luận giám định số 06/2020/KLGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long A kết luận:

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon có rãnh kép được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 39,9707 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng đựng trong 04 gói nylon hàn kín được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 19,2328 gam, loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 07/2020/KLGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long A kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,0889 gam, loại Methamphetamine.

Qua điều tra xác định: Đặng Minh T2 và Nguyễn Minh T3 thỏa thuận cùng nhau mua bán ma túy, T2 bỏ tiền mua ma túy, T3 tìm người mua để bán ma túy, tiền lời chia đôi. Khoảng cuối tháng 12/2019, T2 mua 500 số ma túy của một người Campuchia tên Phương giá 10 triệu đồng và báo cho T3 biết để tìm người bán.

Khoảng 11 giờ ngày 03/01/2020, Võ Thị Mỹ T điện Tại gặp T3 hỏi mua 400 số ma túy giùm người tên Trúc ở Đức Huệ (không biết họ tên, địa chỉ), T3 đồng ý và điện Tại báo cho T2 biết. T2 cân 400 số (39,9707 gam) ma túy đem cất giấu dưới bụi cây trước quán Karaoke Happy, thuộc ấp Mới 1, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức H, tỉnh Long A. Sau đó, T2 điều khiển xe mô tô biển số 59P2-337.27 đến nhà trọ của Quách Thị Thùy Dung, sinh năm 1989, cách quán Karaoke Happy khoảng 500m gặp T3 thống nhất giá 400 số ma túy là 16.000.000 đồng, T3 bán cho T giá 18.000.000 đồng, tiền lời chia đôi. Sau đó, T3 điện Tại báo cho T biết giá 400 số ma túy là 18.000.000 đồng và đưa điện Tại cho T2 nói chuyện với T hẹn địa điểm giao ma túy. Sau khi điện Tại cho T, T2 nói cho T3 biết chỗ cất giấu ma túy và T3 điều khiển xe mô tô hiệu Raider (không rõ biển số) đến trước quán Karaoke Happy lấy bịch ma túy đem về nhà trọ của Dung, lên phòng ngủ trên lầu 1 cân lại gói ma túy thấy đủ 400 số và cất vào túi quần trước bên trái. Sau đó, T2 điều khiển xe mô tô 59P2- 337.27 về nhà và điều khiển xe ô tô 04 chỗ ngồi, biển số 51G-795.03 đến trước cổng công ty Shilabags để chở T đi giao ma túy theo yêu cầu của T3.

Sau khi T2 đi khỏi nhà trọ của Dung, T3 rủ Phạm Thị Diễm H đi Đức Huệ chơi, H đồng ý. T3 điều khiển xe mô tô hiệu Raider chở H đi gần đến công ty Shilabags, H hỏi T3 đi đâu, T3 nói đi giao đồ, H hiểu là đi giao ma túy. T3 điện Tại kêu T lên xe ô tô T2 chở đi bán ma túy, lúc này T3 nói cho H biết T là người mua ma túy của T3. Sau đó, T3 điều khiển xe mô tô chở H, T2 điều khiển xe ô tô chở T đi đến thị trấn Hiệp Hòa bán ma túy cho người tên Trúc. Trên đường, T3 lấy gói ma túy đưa H cất giữ và kêu H đến nơi giao cho T, H cầm gói ma túy cất vào bóp màu đen của H. T3 tiếp tục chở H ghé vào tiệm bán hoa tươi, cách Bách Hóa Xanh tại thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức H khoảng 1km chờ T2 và T. Khi T2 chở T chạy qua, T3 chở H chạy theo qua khỏi Bách Hóa Xanh khoảng 200 mét thì T2 dừng lại và quay đầu xe đậu sát lề đường. T3 chở H đến, H lên xe ô tô ngồi ở ghế trước kế tài xế, H lấy gói ma túy đưa cho T ngồi ghế phía sau, T mở gói ma túy ra xem, xác định đúng là ma túy. Sau đó, T3 kêu T2 lấy 18.000.000 đồng tiền bán ma túy và kêu H về sau với T2, T3 điều khiển xe mô tô về trước. Sau đó, Trúc điện Tại kêu T vào cửa hàng Bách Hóa Xanh thỏa thuận việc mua bán ma túy, T đưa gói ma túy lại cho T2 giữ và xuống xe đi bộ vào Bách Hóa Xanh gặp Trúc, T2 để gói ma túy vào khay đựng đồ gần cần số xe. Chờ khoảng 15 phút không thấy T đi ra nên T2 điều khiển xe chở H đến trước cửa hàng Bách Hóa Xanh dừng chờ một lúc thì T đi ra, khi chuẩn bị lên xe thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang. Sau khi biết T2, T và H bị bắt nên T3 bỏ trốn, đến ngày 22/3/2020 ra đầu thú, khai nhận T3 bộ hành vi phạm tội của mình.

Đối với 04 gói ma túy trong túi đeo màu đen, treo phía sau ghế tài xế, T2 khai là lấy 100 số trong 500 số ma túy mua cách đó 05 ngày cùng với số ma túy T2 sử dụng còn lại, T2 chia ra làm 03 bịch, mỗi bịch 25 số bán 03 người tên T3, Minh và Tuấn (không rõ họ tên, địa chỉ), mỗi bịch giá 500.000 đồng, nhưng chưa bán được; 01 bịch 50 số T2 cất để sử dụng và bán cho người có nhu cầu, T và H không biết 04 gói ma túy này. T2 nảy sinh ý định mua bán ma túy từ tháng 10/2019. T2 mua ma túy của người tên PH ở Campuchia, không biết chỗ ở cụ thể. Ngoài lần bán ma túy nêu trên, T2 còn bán ma túy cho Bi và Hải (không biết họ tên, địa chỉ) mỗi người một lần, giá 200.000 đồng vào tháng 11/2019. T2 thu lợi bất chính khoảng 400.000 đồng.

Nguyễn Minh T3 bắt đầu sử dụng ma túy từ cuối năm 2018 đến ngày 03/01/2020. T3 mua ma túy của những người không biết tên ở khu vực huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng và bán cho người có nhu cầu.

Ngoài lần bán ma túy cho T nêu trên, T3 còn bán cho T 01 gói ma túy giá 200.000 đồng trước đó khoảng 05 ngày; T3 nhờ Dương Văn U sửa xe nhưng không trả tiền mà trả bằng ma túy 01 lần, 01 gói giá 200.000 đồng. T3 thu lợi bất chính khoảng 200.000 đồng.

Đối với 02 gói ma túy thu giữ tại nhà của Võ Thị Mỹ T, T khai mua để sử dụng. T bắt đầu sử dụng ma túy từ tháng 12/2019, ma túy mua của T3 và các đối tượng khác không biết tên và chỗ ở. Phạm Thị Diễm H sử dụng ma túy từ năm 2019, nhiều lần sử dụng ma túy chung với khách hát karaoke và T3. T và H mới tham gia mua bán ma túy lần đầu thì bị bắt.

Ngoài số ma túy bị thu giữ nêu trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ các vật chứng, tài sản như sau:

- 01 khẩu trang y tế màu xanh và 01 bịch nylon bông màu đỏ vàng, hình chữ nhật, kích thước 20x30cm, dùng gói bịch ma túy bán cho người tên Trúc.

- Thu giữ của Đặng Minh T2: Tiền Việt Nam 9.350.000 đồng; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 62P1-937.79, 01 giấy đăng ký mô tô biển số 59P2- 337.27. Xét thấy, các đồ vật, tài sản này không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả cho bà Huỳnh Thị T5, là mẹ của T2. Ngoài ra, còn thu giữ của T2: 01 cân điện tử màu trắng; 01 điện Tại Iphone SX, sim số 0823 101 993; 01 điện Tại Oppo F9, sim số 0902 562 323 và số 0937 677 255; 01 thẻ visa số 4221510080411153 mang tên Đặng Minh T2; 01 túi da màu đen; 01 kéo kim loại; 01 đoạn ống hút; 01 xe ô tô biển số 51G-795.03. Đối với xe mô tô biển số 59P2-337.27 thuộc sở hữu của bà Huỳnh Thị T5, là mẹ của T2, T2 dùng làm PH tiện đi bán ma túy bà T5 không biết nên Cơ quan điều tra không thu giữ xe này.

- Thu giữ trên người của Võ Thị Mỹ T lúc bắt quả tang: 01 điện Tại Oppo màu trắng, sim bị khóa và 01 điện Tại Samsung J7 PRIME màu đen, sim số 0769 810 416. Khám xét nhà của T thu giữ: 01 máy ép IMPULSE SEALER màu xanh, 01 cuốn sổ màu xanh 6.5x10cm có chữ Note book, 01 ống nhựa màu trắng một đầu vót nhọn, dài 7,5cm, 01 hột quẹt ga đã qua sử dụng, 01 bịch nylon 3x4cm màu trắng đã qua sử dụng, 01 bịch nylon 5,5x8cm màu trắng đã qua sử dụng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Thu giữ của Phạm Thị Diễm H: 01 điện Tại Oppo ốp lưng màu hồng, sim số 0939 942 102 và số 0792 865 793, 01 túi da hình chữ nhật màu đen.

- Thu giữ của Nguyễn Minh T3: Tiền Việt Nam 5.300.000 đồng, 01 điện Tại Nokia màu đen, 01 điện Tại Samsung màu đen. Xét thấy các tài sản này không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả cho ông Nguyễn Văn C là cha của T3. Đối với xe mô tô hiệu Raider, T3 dùng làm phương tiện phạm tội, T3 khai xe này không có giấy chứng nhận đăng ký và T3 đã bán cho người khác lúc bỏ trốn, lấy tiền tiêu xài.

Bản cáo trạng số 39/CT-VKSLA-P1 ngày 10 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A đã truy tố các bị cáo Đặng Quốc T2, Nguyễn Minh T3, Võ Thị Mỹ T và Phạm Thị Diễm H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long A quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Minh T2, Nguyễn Minh T3, Võ Thị Mỹ T và Phạm Thị Diễm H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s, điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 50; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Minh T2 17 (Mười bảy) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/01/2020.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g, điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 50; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T3 16 (Mười sáu) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/3/2020.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Mỹ T 15 (Mười lăm) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/01/2020.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 50; Điều 38; Điều 91; Điều 101; khoản 2 Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Diễm H 05 (Năm) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/01/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 17/9/2020, bị cáo Võ Thị Mỹ T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đối với các bị cáo Đặng Minh T2, Nguyễn Minh T3 và Phạm Thị Diễm H sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Võ Thị Mỹ T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; lý do kháng cáo: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính; bị cáo bị Trúc lợi dụng vì lúc đó bị cáo sử dụng ma túy nên đầu óc không tỉnh táo.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất tội danh như Tòa án cấp sơ thẩm đã xử. Tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo tham gia với vai trò giúp sức nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Thị Thị Mỹ T khai nhận, phù hợp với lời khai của các bị cáo Đặng Minh T2, Nguyễn Minh T3, Phạm Thị Diễm H và các chứng cứ, tại liệu có tại hồ sơ, thể hiện:

Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 03/01/2020, các bị cáo đang chuẩn bị bán 39,9707g ma túy, loại Methamphetamine cho đối tượng tên Trúc (chưa rõ họ tên, chỗ ở) với giá 18.000.000 đồng, tại trước cửa hàng Bách Hóa Xanh thuộc Khu phố 2, thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức H, tỉnh Long A thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Long A phối hợp với Công an huyện Đức H bắt quả tang. Thu giữ trên xe ô tô biển số 51G-795.03 số ma túy nêu trên và thu giữ của bị cáo T2 19,2328g ma túy, loại Methamphetamine. Tổng cộng 59,2035 gam.

Tại Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long A kết luận: T3 bộ khối lượng ma túy thu giữ giám định là loại Methamphetamine.

Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long A xử phạt bị cáo Võ Thị Mỹ T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Thị Mỹ T thấy rằng: Tội phạm bị cáo thực hiện là đặc biệt nghiêm trọng (có khối lượng từ 30gam đến 100gam với mức hình phạt từ 15 năm đến 20 năm), khối lượng Methamphetamine bị cáo vận chuyển là 59,2035 gam. Hành vi phạm tội của các bị cáo là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tệ nạn xã hội và nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Nên việc áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo là cần thiết. Án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có tiền án tiền sự để xử phạt bị cáo 15 năm tù là mức khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho T3 xã hội.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh có tình tiết giảm nhẹ nào mới theo quy định pháp luật. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo như quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Mỹ T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Long A về hình phạt đối với bị cáo T.

2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: bị cáo Võ Thị Mỹ T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Mỹ T 15 (Mười lăm) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/01/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Võ Thị Mỹ T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 838/2020/HS-PT ngày 31/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:838/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về