Bản án 832/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 832/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 719/2017/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2017 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 413/2017/QĐST- HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự: 

1.Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng, có mặt.

2.Bị đơn: Anh Phạm Duy T, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn 6, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng. Hiện đang chấp hành án tại tổ 13, phân trại sản xuất trại gian Ngọc Lý, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 02 tháng 5  năm 2017 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên cũng như lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Đặng Thị T trình bày:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T và anh Phạm Duy T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 26 tháng 8 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị T và anh T chung sống hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế, sinh hoạt dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Hơn nữa anh T nghiện ma túy và vi phạm pháp luật dẫn đến phải đi chấp hành hình phạt tù. Do đó hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Tại văn bản ghi ý kiến của anh Phạm Duy T đối với yêu cầu của nguyên đơn ngày 30 tháng 11 năm 2017, anh T thừa nhận lời khai của nguyên đơn về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn và khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị T có đơn xin ly hôn, anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị T được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị Đặng Thị T và anh Phạm Duy T thống nhất khai vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3]. Về tài sản chung: Chị Đặng Thị T và anh Phạm Duy T thống nhất khai vợ chồng không có tài sản chung nên chị T và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu điều tra có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị T và anh Phạm Duy T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Phạm Duy T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị T và anh Phạm Duy T là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, sinh hoạt, làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mặt khác do anh T nghiện ma túy và vi phạm pháp luật dẫn đến phải đi chấp hành hình phạt tù và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Chị T xin ly hôn, anh T cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị ly hôn của chị T và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Đặng Thị T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T được ly hôn anh Phạm Duy T.

[2] Về con chung: Không có và không yêu cầu giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Không có và không yêu cầu giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Đặng Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai số 0005910 ngày 26/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Đặng Thị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo:Chị Đặng Thị T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Duy T vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày bản được giao cho anh T hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 832/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về ly hôn

Số hiệu:832/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về