Bản án 83/2021/HSST ngày 22/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 83/2021/HSST NGÀY 22/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2021/TLST-HS ngày 02/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1982 tại Nghệ An; Nơi đăng ký HKTT: Xã DL, huyện DC, tỉnh Nghệ An. Nơi ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn VH, sinh năm 1960 và bà Cao Thị H, sinh năm 1957; Họ và tên vợ: Bùi Thị B, sinh năm 1983 và có 03 con, con lớn nhất sinh 2004, con nhỏ nhất sinh 2014; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Ngày 25/4/2008, bị Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định số 91/QĐ.XPVPHC(CSHS) xử phạt vi phạm hành chính về an ninh trật tự do dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản người khác. Hình thức phạt tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng).

- Ngày 20/8/2014, Bị Toà án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An: xử phạt 12 (mười hai) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 40): Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2015 và đã đóng án phí năm 2014 (đã xóa án tích) Bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/12/2020 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1988 Địa chỉ: Tổ B, khu phố BH, phường HA, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1983 Địa chỉ: A, tổ A, khu phố 5, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

( Bị cáo H – có mặt, chị V và anh Q – vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 15 phút ngày 23/9/2020, Nguyễn Văn H mượn xe mô tô biển số 93H2-0747 của anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1983, trú tại A, tổ A, khu phố 5, phường LB, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai và điều khiển xe đi đến nhà chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1988, ở tại tổ Tổ B, khu phố BH, phường HA, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai chơi và ngủ qua đêm tại nhà của chị Nguyễn Thị V. Đến khoảng 6 giờ 30 phút ngày 24/9/2020, lợi dụng lúc chị Nguyễn Thị V đi vào nhà tắm nên Hùng đã lén lút lấy trộm một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A51 và 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) để trong túi xách để ở trên tủ rồi điều khiển xe chạy đến tiệm cầm đồ “Nguyễn Nam P”, tại khu phố A, phường LB, thành phố BH do anh Nguyễn Văn Q làm chủ cầm chiếc điện thoại được 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng), có tiền H tiêu xài cá nhân hết còn lại 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau khi phát hiện bị mất tài sản, chị Nguyễn Thị V đã trình báo sự việc lên Công an Phường Hóa An lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý theo quy định. Tại Cơ quan điều tra H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A51 và số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và đã trả lại cho chị Nguyễn Thị V.

- 01 chiếc xe mô tô biển số biển số 93H2-0747, H mượn của anh Nguyễn Văn Q, anh Q không biết H mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Q là chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel không liên quan đến vụ án nên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho H là chủ sở hữu.

Về dân sự: Ông Nguyễn Văn H là cha ruột của H đã cho H số tiền 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng) để bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị V và chị Nguyễn Thị V đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường; Anh Nguyễn Văn Q không yêu cầu H bồi thường.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 428/TCKH-HĐĐG ngày 02/10/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51 có trị giá là 5.534.100 đồng (năm triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn, một trăm đồng).

Tại bản cáo trạng số 121/CT-VKSBH ngày 01/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo: Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Không. Về tình tiết giảm nhẹ tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người phạm tội đã khắc phục hậu quả là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phạt bị cáo: từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

Về dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị V đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Q không yêu cầu bồi thường.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hùng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp vật chứng, kết quả giám định. Qua đó, đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 24/9/2020, tại Tổ B, khu phố BH, phường HA, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51 của chị Nguyễn Thị V có trị giá là 5.534.100 đồng (năm triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn, một trăm đồng) và số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Tổng trị giá Hùng trộm cắp là 9.534.100 đồng (chín triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn, một trăm đồng) thì bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý. Do đó, đã có đủ căn cứ kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo c ng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4]. Xét nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, tình tiết tăng nặng: Không. Tình tiết giảm nhẹ: người phạm tội đã khắc phục hậu quả, tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn bãi nại là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy A51 và số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và đã trả lại cho chị Nguyễn Thị V.

- 01 chiếc xe mô tô biển số biển số 93H2-0747, H mượn của anh Nguyễn Văn Q, anh Q không biết H mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Q là chủ sở hữu.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel không liên quan đến vụ án nên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho H là chủ sở hữu.

[6]. Về dân sự: Ông Nguyễn Văn H là cha ruột của H đã cho H số tiền 2.800.000 đồng (hai triệu tám trăm nghìn đồng) để bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị V và chị Nguyễn Thị V đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn Q không yêu cầu bồi thường.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H: 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2020.

2. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày. Người có mặt thời hạn tính từ ngày tuyên án, người vắng mặt thời hạn tính từ ngày nhận bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2021/HSST ngày 22/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:83/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về