Bản án 83/2021/HS-ST ngày 07/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 83/2021/HS-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2021/TLST - HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:79/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Văn M (Tên gọi khác: Đ), sinh năm 1994 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: Khu 9, thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc: Kinh;

giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972 (đã chết) và bà Trần Thị Kim Th, sinh năm 1974; vợ, con: Không;

Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Ngày 02/02/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong án phạt tù ngày 26/04/2017.

Bị cáo Trần Văn M đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 20 tháng 03 năm 2021 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện T2, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông T3, sinh năm 1949 Địa chỉ: Khu 9, thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai (Có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 10 phút ngày 20/3/2021, tại thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai, Công an thị trấn T1, huyện T2 phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên người M 01 chiếc ví màu đen bên trong chứa 01 gói nylong hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và trong hộp thuốc lá Jet màu trắng 07 gói nylong hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy;

thu giữ 01 xe mô tô biển số 60S2-8548.

Tại bản Kết luận giám định số 538/KLGĐ-PC09 ngày 24/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 9,91936 gam, loại Methamphetamine; Mẫu tinh thể màu trắng (Kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,80533 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra làm rõ hành vi phạm tội như sau:

M là người nghiện ma túy, do cần mua ma túy để sử dụng. Vào ngày 19/3/2021 M đi đến bến xe Miền Đông thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy, tại đây M gặp một người đàn ông chạy xe ôm (không rõ nhân thân, lai lịch), M nhờ người này đi mua cho M ma túy đá với giá 7.500.000 đồng. Sau đó M mang về thị trấn T1, huyện T2 để sử dụng thì đến khoảng 10 giờ 10 phút ngày 20/3/2021, khi đang điều khiển xe mô tô 60S2-8548 đi trên đường thuộc tổ 14, Khu 9, thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai, thì bị lực lượng Cơ quan công an phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên.

Về vật chứng của vụ án:

- 01 phong bì màu trắng kí hiệu số 538/KLGĐ-PC09 đã được niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

- 01 xe mô tô biển số 60S2-8548 là tài sản hợp pháp của ông T3 (ông ngoại của bị cáo M).

Tại bản cáo trạng số 71/CT-VKS-HS ngày 02/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và đề xuất mức án đối với bị cáo Trần Văn M từ 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù.

Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 538/KLGĐ- PC09 có dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine.

- Đối với xe mô tô biển số 60S2-8548 là tài sản hợp pháp của ông Trần Văn T3 (ông ngoại của M), khi cho M mượn xe không biết việc M dùng xe mô tô biển số 60S2-8548 đi sử dụng ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã trả lại cho chủ sở hữu.

- Đối với đối tượng hành nghề xe ôm đã mua ma túy cho Trần Văn M hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý, khi nào xác minh được nhân thân lai lịch sẽ xử lý sau.

Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

- Tại phiên tòa: Bị cáo M thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng truy tố là đúng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa bị cáo không đưa ra đồ vật, tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M đã thừa nhận: Vào khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 20/3/2021, tại thị trấn T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai, bị cáo M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine với khối lượng 12,72469 gam để sử dụng thì bị Công an thị trấn Tân Phú phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu hồi được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận, hành vi trên của bị cáo Trần Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 71/CT-VKS-HS ngày 02/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai cho bị cáo.

[3]. Bị cáo M nhận thức được rằng ma túy là hiểm họa của mọi người, mọi nhà là một loại chất cấm lưu hành và do Nhà nước quản lý; Bị cáo là người nghiện ma túy nhưng không quyết tâm từ bỏ ma túy, sống có ích cho gia đình và xã hội mà ngược lại bị cáo còn đi vào con đường phạm tội bằng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo M là người có nhân thân xấu (Ngày 02/02/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phạt tù ngày 26/04/2017). Do đó, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 538/KLGĐ- PC09 có dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine.

- Đối với xe mô tô biển số 60S2-8548 là tài sản hợp pháp của ông Trần Văn T3 (ông ngoại của M), khi cho M mượn xe không biết việc M dùng xe mô tô biển số 60S2-8548 đi sử dụng ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định nên không xem xét.

[6] Các vấn đề khác: Đối với đối tượng hành nghề xe ôm đã mua ma túy cho Trần Văn M hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý, khi nào xác minh được nhân thân lai lịch sẽ xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội và hình phạt của bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

 Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn M 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2021.

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 538/KLGĐ- PC09 có dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine.

(Số vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyên Tân Phu va Chi cuc Thi hanh an dân sư huyên Tân Ph ú ngày 03/6/2021).

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Văn M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. N gười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2021/HS-ST ngày 07/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về