Bản án 83/2021/HNGĐ-ST ngày 17/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

 BẢN ÁN 83/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 37/2021/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 62/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021, giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1993. ĐKHKTT: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương. Chỗ ở hiện nay: Thôn L, xã Đ, huyện C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Vũ Văn N, sinh năm 1991.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn P, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Ba Lan. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày: Chị và anh Vũ Văn N được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương ngày 12/3/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 5 tháng thì anh Nam đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), từ khi đi anh không quan tâm đến chị, khi chị gọi điện báo tin bị thai lưu thì anh liên tục gọi điện về chửi mắng xúc phạm chị. Chị đã tìm cách khuyên giải để anh N thay đổi nhưng không có kết quả. Khi có con, anh không quan tâm và không có trách nhiệm với vợ con, anh N còn bảo chị ở nhà tự làm đơn xin ly hôn do vậy cuối năm 2014 chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Sau khi anh Nam đi Đài Loan (Trung Quốc) về chị bảo anh N làm thủ tục ly hôn nhưng anh nói bận công việc nên anh không làm mà để chị tự giải quyết một mình. Đến đầu năm 2019, anh N tiếp tục sang Ba Lan làm ăn, từ khi đi cho đến nay anh cũng không liên lạc gì với chị, vợ chồng sống ly thân từ lâu không ai quan tâm tới ai. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn N.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Vũ Yến V, sinh ngày 21/11/2014. Chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của ông Vũ Văn Ư (là bố anh N) khai: Ông không biết địa chỉ cụ thể của anh N ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh N vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Nam biết. Thông qua gia đình, anh N trình bày quan điểm và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn, anh nhất trí để chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Ông Ư có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H, anh N đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Quá trình chung sống của vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng mỗi người ở một nơi. Sau khi sinh con, chị H đã bế con về nhà bố mẹ đẻ ở. Nay chị H có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Vũ Văn N. Về con chung: Giao cháu Vũ Yến V, sinh ngày 21/11/2014 cho chị H nuôi dưỡng, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm dân sự (ly hôn).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị H sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Vũ Văn N có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở Thôn P, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, hiện anh Nam đang lao động tại Ba Lan, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hà không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh N ở Ba Lan. Tòa án đã yêu cầu gia đình anh N cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng đã tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh Nam và gia đình đã thông báo cho anh N biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh N. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai anh N, chị H vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Vũ Văn N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương ngày 12/3/2014 nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, không có sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau. Cuối năm 2014 chị H về nhà bố mẹ đẻ ở nên vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm tới ai. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Nam đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình, chính quyền địa phương. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H ly hôn anh Nam là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Trần Thị H và anh Vũ Văn N có một con chung là Vũ Yến V, sinh ngày 21/11/2014, hiện đang ở với chị H. Anh N đang lao động ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, anh N nhất trí. Do vậy, HĐXX chấp nhận giao con chung Vũ Yến V cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng cho con. Nếu có căn cứ cho rằng chị H không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh Nam có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị H ly hôn anh Vũ Văn N.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Vũ Yến V, sinh ngày 21/11/2014 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Trần Thị H không yêu cầu anh Vũ Văn N phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Vũ Văn N thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005742 ngày 08 tháng 3 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Vũ Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 83/2021/HNGĐ-ST ngày 17/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:83/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về