Bản án 83/2021/DS-ST ngày 25/05/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

 BẢN ÁN 83/2021/DS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ

 Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2021/TLST – DS, ngày 04 tháng 01 năm 2021, về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2021/QĐXXST – DS, ngày 05 tháng 4 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 50/2021/QĐST – DS ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thanh Gi. (có mặt) Địa chỉ: 202/16 đường 30/4, phường Hương Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Bà Phạm Thị Bích Ph. (vắng mặt) Địa chỉ: Số 01, đường Ngô Quốc Trị, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện gởi Tòa án ngày 15 tháng 12 năm 2020, quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn bà Lê Thanh Gi trình bày: Năm 2012, bà Gi và bà Phạm Thị Bích Ph có mối quan hệ mua bán các mặt hàng sữa bột, địa điểm giao nhận hàng mua bán tại quầy bách hoá Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Hậu Giang. Mối quan hệ làm ăn gần 7 (bảy) năm, bà Ph thanh toán tiền rất tốt.

Ngày 26/6/2020 tại quầy Bách hoá Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Hậu Giang thuộc đường Trần Hưng Đạo, phường III, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, hai bên xác nhận thống nhất số tiền nợ chưa thanh toán là 243.483.000 đồng (hai trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm tám mươi ba nghìn đồng) và hoá đơn bán lẻ nợ đến tháng 7/2020 và thêm hai lần giao hàng của tháng 8 là ngày 04/8/2020 và ngày 18/8/2020 tổng số tiền nợ là 269.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi chín triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn đồng). Trong giấy xác nhận nợ bà Ph hứa thanh toán hết số tiền trên vào ngày 25/11/2020 nhưng không thực hiện, đã bỏ quầy bách hoá Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Hậu Giang và không liên lạc được nữa.

Ngày 02/10/2020, bà Gi có đến gia đình bà Ph tại đường Ngô Quốc Trị, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang để tìm bà Ph nhưng không gặp. Sau đó, được ông Phạm Văn Ng (tên thường gọi: Bảy Ng) cha chồng của bà Ph hứa khi nào có tin tức của vợ chồng bà Ph sẽ thông báo cho bà Giang biết. Ông Ngôn có trả lại cho bà Gi 25 (hai mươi lăm) hộp sữa giá tương đương là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng).

Nay, bà Lê Thanh Gi yêu cầu bà Phạm Thị Bích Ph có trách nhiệm trả cho bà số tiền mua bán còn nợ là 263.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi ba triệu hai trăm hai bốn nghìn đồng), sau khi trừ 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) của 25 (hai mươi lăm) hộp sữa gia đình bà Ph đã trả lại bà Giang.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph đã được tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ nhưng đều vắng mặt, nên chưa trình bày ý k iến và đưa ra yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, bà Lê Thanh Gi vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph. Bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph được triệu tập đến dự phiên toà đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh: Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự nguyên đơn đúng quy định, bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Toà án. Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thanh Gi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn bà Lê Thanh Gi khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph, cư trú tại khu vực 3, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang có trách nhiệm trả số tiền mua bán sữa bột còn nợ là 263.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi ba triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn đồng). Tòa xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá thuộc thẩm quyền giải của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang quy theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến dự phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt bà Phạm Thị Bích Ph theo quy định.

[3] Về nội dung tranh chấp: xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thanh Gi cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua ý kiến của nguyên đơn, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định: Từ năm 2012, giữa bà Lê Thanh Gi và bà Phạm Thị Bích Ph có quan hệ mua bán các mặt hàng sữa bột với nhau. Đến tháng 6/2020 thì bà Phạm Thị Bích Ph còn nợ bà Lê Thanh Gi số tiền là 243.483.000 đồng (hai trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm tám mươi ba nghìn đồng), được lập biên bản ngày 26/6/2020 về việc xác nhận nợ và cam kết trả nợ trước ngày 25/11/2020. Sau đó, bà Giang vẫn tiếp tục giao hàng cho bà Phạm Thị Bích Ph tại quầy Bách hoá thuộc Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Hậu Giang. Tính đến ngày 18/8/2020 bà Ph còn nợ tổng số tiền mua bán hàng hoá của bà Gi là 269.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi chín triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn đồng). Đến ngày 25/11/2020 bà Ph không thanh toán nợ, không liên lạc được nên phát sinh tranh chấp.

[3.1] Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án của Toà án, nguyên đơn bà Lê Thanh Gi có cung cấp cho Toà án tài liệu, chứng cứ bản chính giấy xác nhận nợ và cam kết trả nợ được lập ngày 26/6/2020 và bản chính hoá đơn bán lẻ ngày 18/8/2020 có chữ ký xác nhận của bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph. Phía bị đơn bà Ph đều vắng mặt không lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì cho Toà án. Căn cứ khoản 1 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Từ đó cho thấy, yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thanh Gi là có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Tại phiên toà, bà Lê Thanh Gi cho rằng có nhận lại 25 (hai mươi lăm) hộp sữa giá tương đương số tiền là 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). Đồng ý trừ vào số tiền nợ của bà Phạm Thị Bích Ph (269.224.000 đồng - 6.000.000 đồng), số tiền còn nợ lại là 263.224.000 đồng. Đây là sự tự nguyện và phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện khởi của nguyên đơn bà Lê Thanh Gi. Buộc bị đơn Phạm Thị Bích Ph có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thanh Gi số tiền còn nợ là 263.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi ba triệu hai trăm bốn mươi bốn nghìn đồng).

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị đơn phải chịu 5% trên số tiền bị buộc trả. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 26, 35, 39, 91, 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Các điều 430, 431, 435, 440, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015.

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử : Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thanh Gi.

1/ Buộc bà Phạm Thị Bích Ph có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thanh Gi tổng số tiền mua bán hàng hoá còn nợ là 263.224.000 đồng (hai trăm sáu mươi ba triệu hai trăm hai bốn mươi nghìn đồng).

2/ Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph phải nộp 13.161.200 đồng (mười ba triệu một trăm sáu mươi mốt nghìn hai trăm đồng). Bà Lê Thanh Gi được nhận lại số tiền 6.730.000 đồng (sáu triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006249 ngày 29/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

4/ Nguyên đơn bà Lê Thanh Gi được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn bà Phạm Thị Bích Ph vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

5/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 83/2021/DS-ST ngày 25/05/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

Số hiệu:83/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về