Bản án 83/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 83/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; Nơi đăng ký HKTT: Thôn L.Q, xã V.H, huyện Đ.A, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1962 và bà Trần Thị N, sinh năm 1964; Vợ: Nguyễn Thị T2, sinh năm 1985; Con 01 con sinh năm 2011;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 05/9/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Đ.A, tp Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, án phí HSST 50.000 đồng, án phí DSST 50.000 đồng. Ngày 19/9/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố H.N xử phạt 18 tháng tù về tội không tố giác tội phạm, án phí HSST 50.000 đồng. Ngày 22/01/2008 Tòa án nhân dân thành phố H.N có quyết định thi hành án số 05 tổng hợp hình phạt 2 bản án là 26 tháng tù. Ngày 30/5/2009 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương và đã chấp hành xong toàn bộ án phí.

- Ngày 26/7/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Đ.A, tp Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, án phí HSST 200.000 đồng. Ngày 17/4/2014 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương và đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tam giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 13/11/2019 tại khu vực nghĩa trang khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T.S bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy cho Nguyễn Văn T3 với giá 200.000 đồng.

Về vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ của của T 200.000 đồng số tiền T vừa bán ma túy cho T3 và 02 gói ma túy Heroine (niêm phong ký hiệu M2); Thu giữ của T3 01 gói ma túy Heroine (niêm phong ký hiệu M1) vừa mua của T.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S đã trưng cầu giám định và tại bản kết luận giám định số 686/KLGĐMT-PC09 ngày 15/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

“+ Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M1 có khối lượng 0,0275 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine;

+ Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu M2 có khối lượng 0,1386 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine Với nội dung trên, bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 27/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận: Bị cáo là người thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy, sống lang thang ở khu vực nghĩa trang khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Ngày 13/11/2019 do không có tiền ăn tiêu nên bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại kiếm lời. Khoảng 12 giờ cùng ngày, tại khu vực nghĩa trang khu phố C.D, bị cáo hỏi mua được 03 gói ma túy có cùng đặc điểm bọc ngoài là lớp giấy màu bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine của một người đàn ông không quen biết với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được 03 gói ma túy này, bị cáo cất giữ trên người để khi có ai hỏi mua thì sẽ bán lại kiếm lời. Đến khoảng 16 giờ 20 phút ngày 13/11/2019 khi bị cáo đang ở trong khu vực nghĩa trang khu phố C.D thì có 03 người đàn ông không quen biết sau khi bị bắt bị cáo biết tên là Nguyễn Văn T3, sinh năm 1990 trú tại thôn P.L, xã P.C, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh; Trần Văn K, sinh năm 1983 trú tại: Thôn Đ.T, xã V.Đ, huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh và Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1979 trú tại thôn C, xã C.B, huyện G.L, tp Hà Nội. Tại đây, T3 hỏi mua của bị cáo 200.000 đồng ma túy heroine, bị cáo đồng ý. Sau đó, T3 đưa cho bị cáo số tiền 200.000 đồng, bị cáo cầm tiền và đưa lại cho T3 01 gói ma túy thì bị lực lượng công an đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng. Ngoài số tiền 200.000 đồng và 02 gói ma túy bị thu giữ, bị cáo không bị thu giữ gì khác.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 30 đến 34 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/11/2019.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định; Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 13/11/2019 tại nghĩa trang khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T.S bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy có khối lượng 0,0286 gam ma túy Heroine cho Nguyễn Văn T3 với gái 200.000đồng. Ngoài ra, lực lượng công an còn thu giữ của T 02 gói ma túy có khối lượng 0,1386 gam là ma túy Heroine, T khai tàng trữ với mục đích bán lại kiếm lời . Tổng khối lượng ma túy T tàng trữ để bán kiếm lời là 0,1661 gam ma túy Heroine. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố đối với bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử về các tội chiếm đoạt T3 sản nay đã được xóa án tích, bản thân là đối tượng sử dụng ma túy. Nhưng sau khi bị bắt tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bán ma túy để kiếm lời đáng lẽ phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên bị cáo sống lang thang, không có T3 sản riêng, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; Số tiền 200.000 đồng là tiền mua bán ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án còn có đối tượng tự khai tên Nguyễn Văn T3, sinh năm 1990 ở thôn P.L, xã P.C, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh mua ma túy của T. Sau khi tổ công tác bắt quả tang đã đưa T3 về trụ sở Công an để làm việc. Lợi dụng sơ hở của cán bộ trông giữ, T3 đã bỏ trốn. Qua xác minh tại địa chỉ theo lời khai của đối tượng tại địa bàn xã P.C không có đối tượng nào có lý lịch như T3 đã khai nhận nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với Trần Văn K và Nguyễn Văn Đ là người đi cùng T3. Khi lực lượng Công an bắt quả tang, K và Đ mới biết về việc T3 và T mua bán ma túy với nhau. Do vậy Cơ quan điều tra đã giáo dục, nhắc nhở là đủ.

Đối với người đã bán ma túy cho T, quá trình điều tra chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ, lai lịch của người ngày, vì vậy không đủ căn cứ để Cơ quan điều tra xác minh, làm rõ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2019.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh;

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 200.000 đồng (theo biên bản giao nhận vật chứng).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về