TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 83/2019/HS-PT NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo Lê Văn S, do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn S đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HSST ngày 02/05/2019 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương.
1. Bị cáo kháng cáo:
Lê Văn S, sinh năm 1986; ĐKHKTT và cư trú tại: Số 198 Vũ Công Đ, khu T, phường M, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dântộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị H; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ là Trần Thị H, sinh năm 1990; Có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2019,chuyển tạm giam từ ngày 16/01/2019 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn S là đối tượng bị nghiện ma túy. Khoảng 12giờ 30phút ngày 10/01/2019, S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream biển số 34B1-343.60 (Mượn của anh Lê Văn D ở khu T, phường M, thành phố Hải Dương) đi ra khu C, phường Q, thành phố Hải Dương mua được 01 túi ma túy đá với số tiền 300.000đ của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) rồi cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi S điều khiển xe đến trước cửa số nhà 200 đường N, phường Q, thành phố H thì bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh Hải Dương kiểm tra, thu giữ trong túi áo khoác bên trái S đang mặc 01 túi nilon màu trắng, bên trong có các hạt tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Dream biển số 34B1-343.60 .
Tại Kết luận giám định số 77/KLGĐ-PC09 ngày 12/01/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong bì thư ghi thu của Lê Văn S, gửi đến giám định có khối lượng là 0,348 gam là loại Methamphetamine. (Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018của Chính phủ).
Về vật chứng: Đối với 0,274 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì số 77/KLGĐ-PC09có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hiện đang được quản lý tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương; Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hải Dương đã trả lại xe mô tô nhãn hiệu Dream biển số 34B1-343.60 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Lê Văn Duy.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HS- ST ngày 03/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dươngđã căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn S 15 (mười lăm) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/01/2019.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày17/5/2019 bị cáo S kháng cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương sau khi xem xét, đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo xác địnhTòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 tháng tù là có căn cứ. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm bị cáo đã tác động người nhà nộp hộ tiền án phí hình sự theo quyết định của bản án sơ thẩm, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 13 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[ 1] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vị phạm tội của mình.Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 13giờ ngày 10/01/2019, tại trước cửa số nhà 200 đường N, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Lê Văn S có hành vi đang cất giấu trái phép 0,348gam Methamphetaminevới mục đích để sử dụng thì bị Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hải Dương bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, bị Nhà nước cấm sản xuất, quản lý và sử dụng nhưng bị cáo vẫn cố ý vi phạm. Do vậy bị cáo bị cấp sơ thẩm truy tố và xét xử về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có hành vi tàng trữ 0,348gam Methamphetaminenên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 15 tháng tù là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã tác động nhờ gia đình nộp tiền án phí hình sự theo quyết định của bản án sơ thẩm, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật, do vậy bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm. Do vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.
[3]Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn S. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HS- ST ngày 03/ 5/ 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt đối với bị cáo như sau:
1.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Lê Văn S 12( Mười hai) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/01/2019.
2.Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn S khôngphải chịuán phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/7/2019./.
Bản án 83/2019/HS-PT ngày 23/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về