Bản án 83/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ U, TỈNH Q

BẢN ÁN 83/2018/HS-ST NGÀY 20/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố U, tỉnh Q, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2018/TLST- HS ngày 04 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2018/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: VŨ THANH T , tên gọi khác: Núi; sinh ngày 23/7/1991, tại Q Y, Q.N. Nơi cư trú: Thôn 5, xã S, thị xã Q.Y, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Xuân N và bà Nguyễn Thị V ; vợ: Phạm Thị Hồng N , sinh năm 1994, và có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 22/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Y. H (Nay là thị xã Q Y) xử phạt 36 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thi hành xong phần dân sự ngày 19/11/2010; ngày 28/9/2012 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương; bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/3/2018, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.

* Những người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm: 1948.

Địa chỉ: Tổ 11, khu L. Thanh, phường Y Thanh, thành phố  U, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Ông Hoàng Văn T , sinh năm: 1972.

Địa chỉ: Tổ 28, khu P Thanh Tây, phường YThanh, thành phố U, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 14/3/2018, tại khu vực ngã tư bệnh viện Việt Nam- Thụy Điển U. B, thuộc tổ 23 khu P, phường Y, thành phố U, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố U, phối hợp với Cụm đặc nhiệm Phòng chống tội phạm ma túy số 1 Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và Công an phường Y bắt quả tang Vũ Thanh T có hành vi cất giấu bên trong túi quần phía trước, bên phải T đang mặc 02 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng. T  khai đó là ma túy loại Heroine T  mua ở thành phố H. P để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật; ngoài ra còn thu giữ của T số tiền 460.000đ.

Tại bản kết luận giám định số 252/GĐMT, ngày 15/3/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu trắng (kí hiệu M1, M2) thu giữ của Vũ Thanh T gửi giám định là ma túy, loại Heroine; khối lượng lần lượt là: M1: 0,166 gam, M2: 0,157 gam. Tổng khối lượng ma túy Heroine là: 0,323 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Thanh T khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 14/3/2018, T mang theo 1.000.000đ, đón xe khách đi từ ngã ba Quốc lộ 18A, đoạn giao với đường đi thị xã Q Y , đến thành phố H.P để mua ma túy, loại Heroine về sử dụng. Khi đến ngã ba Xi Măng, thành phố H. P, Tân xuống xe khách đi xe ôm đến ngã tư đèn xanh, đỏ gần cầu Quay thì xuống xe đi bộ 100m vào một ngõ nhỏ, T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 450.000đ ma túy, loại Heroine. Người đàn ông này đưa cho T 02 gói giấy bạc màu trắng. T cầm, nắn thấy bên trong chứa chất dạng cục, T  tin tưởng là ma túy Heroine, nên không mở ra kiểm tra rồi cho 02 gói giấy bạc này vào túi quần phía trước bên phải đang mặc, sau đó ra ngã ba Xi Măng đón xe khách về nhà. Khi ô tô khách đi đến ngã tư cổng bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển, thuộc tổ 23, khu P, phường Y, thành phố U, tỉnh Q, dừng trả khách thì T bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T tại H. P, không xác định được lai lịch cụ thể, nên không có căn cứ để xử lý.

Tại Cáo trạng số: 97/CT- VKSUB  ngày 31/5/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”,  theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U tại phiên tòa giữ nguyênquyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/3/2018.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy, không nhằm mục đích mua bán và không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 252/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, còn nguyên vẹn; trả lại cho bị cáo 460.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn, hối cải và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng  tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thụ thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến ông Nguyễn Văn P, ông Hoàng Văn T, với biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố U lập hồi 14 giờ 50 phút ngày 14/3/2018, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 14/3/2018, tại khu vực ngã tư bệnh viện Việt Nam- Thụy Điển thuộc tổ 23 khu P, phường Y, thành phố U, tỉnh Q, Vũ Thanh T  là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi cố ý tàng trữ trái phép 0,323 gam (không phảy ba hai ba) gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, nên đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Về nhân thân của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản”, nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức đầy đủ về việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì chơi bời, đua đòi bị cáo đã cố ý phạm tội.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Không có

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[3.4] Về hình phạt chính: Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy (Heroine) thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu hủy; số tiền 460.000đồng thu giữ của bị cáo, không dùng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thanh T  phạm tội:  “Tàng trữ trái phép chất ma t”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Thanh T 15 (mười lăm)  tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/3/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 252/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, còn nguyên vẹn; trả lại cho bị cáo 460.000đ (bốn trăm sáu mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 6 năm 2018 giữa Công an thành phố U và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Q).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Thanh T  phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:83/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về