Bản án 83/2018/HS-ST ngày 04/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 83/2018/HS-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 87/2018/TLST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2018/QĐXXST-HS, ngày 19/9/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng A T - Sinh năm: 1978 tại: Huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa 01/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Đạo tin lành miền bắc; Con ông: Vàng Sông C và bà Giàng Thị C ( đều đã chết); Bị cáo có vợ và02 con; Tiền án, tiền sự:  không; Nhân thân: tốt; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2018 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Ông giàng A Mơ

Nơi cư trú: Bản Hua mường, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La có mạt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 30 phút ngày 13 tháng 6 năm 2018, Công an huyện Sốp Cộp phối hợp với Công an xã M, huyện Sốp Cộp làm nhiệm vụ tại bản H, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Vàng A T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ trong túi quần bên phải của T đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có chứa 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa 05 viên nén màu hồng (Nghi là ma túy tổng hợp). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng và dẫn giải Vàng A T về công an huyện điều tra theo quy định của pháp luật.

Ngày 15/6/2018 tại Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ trên. Kết quả cân tịnh 05 (năm) viên nén màu hồng có khối lượng là 0,46 gam. Lấy 03 viên có tổng khối lượng là 0,28 làm mẫu giám định, ký hiệu T. Còn lại 02 viên có tổng khối lượng là 0,18 gam, ký hiệu T1, làm vật chứng lưu kho.

Kết luận giám định số: 761 ngày 18/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,28 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,46 gam; Loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vàng A T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 13/6/2018 do nghiện ma túy nên Vàng A T một mình mang theo số tiền 150.000 đồng đi bộ từ nhà ở bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đi tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến cuối bản H thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đang đi bộ trên đường T lại gần làm quen rồi hỏi mua được 05 viên ma túy tổng hợp được gói trong giấy nilon màu hồng với giá 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Mua được ma túy Vàng A T cất vào trong bao thuốc lá nhãn hiệu “Thăng Long” rồi cất vào trong túi quần bên phải đang mặc, sau đó đi bộ sang bản Sài Khao, xã Mường Cai, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La chơi. Khi đi đến bản H, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên .

Cáo trạng số 78/CT – VKS, ngày 05 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Vàng A T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Vàng A T từ 14 đến 16 tháng tù, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vàng A T nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vàng A T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 0,46 gam loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện bị cáo không có tiền án tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cao luôn chấp hành tốt chủ trương đường lối, pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 0,18 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 gói nilon màu hồng, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là vật nhà nước cấm tàng trữ và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Vàng A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Vàng A T 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu hủy 0,18 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 gói nilon màu hồng, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 17/9/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Vàng A T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 04/10/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2018/HS-ST ngày 04/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về