Bản án 83/2017/HSST ngày 24/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 83/2017/HSST NGÀY 24/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 24 tháng 10 năm 2017. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 77/2017/HSST ngày 02/10/2017; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2017/HSST-QĐ ngày 12/10/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân Tr, sinh năm 1989

Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã A, huyện V, thành phố Hải Phòng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1959 và bà Vũ Thị S, sinh năm 1959; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/6/2017, chuyển tạm giam từ ngày 26/6/2017 đến nay, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/6/2017 Nguyễn Xuân Tr đi bộ ra quốc lộ 10 rồi bắt xe khách để sang huyện Q, tỉnh Thái Bình để tìm mua ma túy, khi đến khu vực thôn V, xã A, huyện Q thì Trường xuống xe. Tại đây Trường mua 02 gói ma túy có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong là chất bột dạng cục với giá 300.000 đồng của nam thanh niên khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ. Sau khi mua được ma túy, Trường đi tìm nơi vắng vẻ để sử dụng, khi đi đến khu vực tổ 1X, thị trấn A, huyện Q thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Xuân Tr tại Thôn A, xã A, huyện V, thành phố Hải Phòng không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Bản kết luận giám định số: 271/KLGĐ – PC54 ngày 23/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Xuân Tr là ma túy, loại hêrôin, có trọng lượng 0,4220 gam (không phẩy bốn nghìn hai trăm hai mươi gam)

Bản cáo trạng số: 80/KSĐT ngày 29 tháng 9 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã truy tố Nguyễn Xuân Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như tại bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Tr mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, đồng thời đề nghị HĐXX xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Trước phiên tòa hôm nay cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Xuân Tr đều khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/6/2017 Nguyễn Xuân Tr từ nhà bắt xe khách sang huyện Q với mục đích mua ma túy, tại khu vực thôn V, xã A, huyện Q, bị cáo đã mua 02 gói ma túy với giá 300.000 đồng của người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ, sau khi mua được ma túy, bị cáo tìm chỗ vắng vẻ để sử dụng, khi đi đến khu vực tổ 1X, thị trấn A, huyện Q thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng ông Trần Danh D, anh Trần Danh T (BL: 54 đến 63). Ngoài ra còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL: 01, 02); Biên bản niêm phong vật chứng và Bản kết luận giám định số: 271/KLGĐ – PC54 ngày 23/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (BL: 03, 12). Như vậy có đầy đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự. Điều 194 BLHS: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả vụ án cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma túy là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm nguy hiểm, phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình, kìm hãm sự phát triển kinh tế, vì vậy pháp luật Nhà nước ta đã có những chế tài nghiêm khắc giành cho loại tội phạm này nhằm hạn chế và tiến tới xóa bỏ loại tội phạm này khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội, do vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo bị cáo nói riêng cũng như phòng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên cũng xét bị cáo sau khi phạm tội khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Mặt khác căn cứ vào nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội hướng dẫn áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 thì quyết định theo hướng có lợi cho bị cáo. Do vậy cần áp dụng điểm p khoản 1Điều 46 BLHS; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; giảm cho bị cáo một phần hình phạt là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Bị cáo mắc nghiện ma túy, mục đích tàng trữ trái phép ma túy là để sử dụng cho bản thân, không có thu nhập, sống phụ thuộc vào gia đình, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[4] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên địa chỉ ở khu vực thôn V, xã A, huyện Q, quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này nên không có căn cứ giải quyết.

 [5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 271/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình.

Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự (Nghị quyết: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội). Xử phạt Nguyễn Xuân Tr: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/6/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 271/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 45 Bộ luật hình sự (Nghị quyết: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội). Xử phạt Nguyễn Xuân Tr: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/6/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 271/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình. (Chi tiết như tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/9/2017 – BL: 85)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Xuân Tr phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/10/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2017/HSST ngày 24/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về