Bản án 828/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 828/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 08/7/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 7/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019, về việc "Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn số 91/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019; giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc Lan A, sinh năm: 1997; địa chỉ: A Đường số 2, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (yêu cầu xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm: 1996; địa chỉ: A Đường số 2, Phường X, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20 tháng 12 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, bà Nguyễn Ngọc Lan A trình bày:

Bà A và ông Nguyễn Văn N tìm hiểu và quen biết nhau từ năm 2014 đến năm 2016 chung sống có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã; ông N nhiều lần bạo hành, đe dọa tinh thần bà A, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, hôn nhân không hạnh phúc và không có sự chia sẻ khó khăn trong cuộc sống. Nay bà A xác định tình cảm vợ chồng với ông N không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông N để ổn định cuộc sống.

Về con chung: 02 cong chung tên Nguyễn Thị Bảo Tr, sinh ngày 04/10/2016 và Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 07/8/2018. Sau ly hôn bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục 02 con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà A yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi 02 con chung, mỗi con 02 triệu đồng; thực hiện vào ngày 10 hàng tháng, bắt đầu thực hiện cấp dưỡng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành cho đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Bà A yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải nữa mà đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/5/2019, bà A có đơn yêu cầu xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án với lý do phải chăm sóc con nhỏ, không có thời gian đi lại và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà A.

Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cùng giấy triệu tập ông N đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông N không đến và không có văn bản trình bày ý kiến trước các yêu cầu của bà A.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu quan điểm tại phiên tòa sơ thẩm xác định:

Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự: Việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn đã không thực hiện đầy đủ quyền- nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 25/4/2016 của Ủy ban nhân dân Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông N và bà A là hợp pháp. Quá trình giải quyết, Tòa án đã tổ chức hòa giải nhưng ông N không đến, thể hiện ông N không tha thiết hàn gắn, đoàn tụ với bà A. Quá trình chung sống, ông N và bà A có 02 con chung tên Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 07/8/2018 và Nguyễn Thị Bảo Tr, sinh ngày 04/10/2016; cả 02 con chung dưới 36 tháng tuổi và yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84, 85 Luật hôn nhân- Gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “ly hôn”, do bị đơn hiện cư trú tại quận Gò Vấp, căn cứ quy định Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự có mặt của đương sự: Ông N đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt lần 2 không lý do. Bà A có yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vụ án vắng mặt bà A và ông N.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 25/4/2016 của Ủy ban nhân dân Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông N là hợp pháp. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông N đã có những bất hòa, mâu thuẫn trầm trọng làm tổn thương đến tình cảm vợ chồng. Trên thực tế cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, không có sự chia sẻ với nhau những khó khăn trong cuộc sống. Tòa án đã triệu tập ông N đến Tòa án để hòa giải đoàn tụ nhưng ông N không đến, chứng tỏ ông N không quan tâm đến cuộc sống hôn nhân với bà A. Xét thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà A và ông N không đạt được mục đích hôn nhân, việc đoàn tụ không mang lại hạnh phúc; căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình yêu cầu ly hôn của bà A là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Căn cứ vào Trích lục khai sinh số 627/TLKS-BS ngày 18/10/2016 và số 608/TLKS-BS ngày 22/8/2018 có căn cứ xác định bà A và ông N có 02 con chung tên Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 07/8/2018 và Nguyễn Thị Bảo Tr, sinh ngày 04/10/2016. Xét, bà A có yêu cầu trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, Hội đồng xét xử nhận thấy cả 02 con chung của bà A và ông N đều dưới 36 tháng tuổi, để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về mọi mặt của con; căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân- Gia đình thì việc giao 02 con chung cho bà A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dương và giáo dục là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Theo khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân- Gia đình quy định về nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”; do vậy, việc bà A có yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con, mỗi con chung 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng là có căn cứ chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà A xác định tài sản chung không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết; nợ chung không có. Ông N vắng mặt không có ý kiến về tài sản chung nên căn cứ Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết tài sản chung trong vụ án này. Các đương sự được quyền khởi kiện về tài sản chung trong vụ án khác khi có yêu cầu.

[7]. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Luật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án thì bà Anh phải chịu án phí sơ thẩm đối với tranh chấp hôn nhân- gia đình.

Án phí cấp dưỡng nuôi con ông N phải nộp theo quy định tại cơ quan có thẩm quyền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ vào Luật phí và lệ phí;

Căn cứ Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Ngọc Lan A Bà Nguyễn Ngọc Lan A được ly hôn ông Nguyễn Văn N

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 07/8/2018 và Nguyễn Thị Bảo Tr, sinh ngày 04/10/2016 cho bà Nguyễn Ngọc Lan A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ông N được quyền thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn N phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung, mỗi con 2.000.000 (hai triệu) đồng/tháng, thực hiện vào ngày 10 hàng tháng cho đến khi các con lần lượt đủ 18 tuổi.

Ngay sau khi án có hiệu lực.

Kể từ ngày bà A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông N không thi hành khoản tiền cấp dưỡng nói trên thì hàng tháng ông N còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm thi hành theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

4. Tài sản chung: Không giải quyết trong vụ án này.

5. Án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về hôn nhân- gia đình: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Nguyễn Ngọc Lan A phải chịu theo quy định của pháp luật nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2018/0001826 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Anh đã nộp đủ.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000 đồng ông Nguyễn Văn N phải nộp theo quy định của pháp luật tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

6. Quyền và thời hạn kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

(Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 25/4/2016 của Ủy ban nhân dân Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị pháp lý).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 828/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:828/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về