Bản án 826/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 826/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 236/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 202/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Trúc L, sinh năm 1996 Địa chỉ: Số 20, đường số 597, tổ 6, ấp Đ, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn C, sinh năm 1989 Địa chỉ: Số 41/1, đường số 566, ấp X, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn xin ly hôn nộp ngày 06 tháng 02 năm 2020, tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Lê Thị Trúc L trình bày như sau:

Chị và anh C tự nguyện chung sống với nhau từ 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, giấy chứng nhận kết hôn số 26/2016 ngày 29/4/2016. Thời gian chung sống chị phát hiện anh C ăn chơi, không lo cho vợ con. Hai vợ chồng xảy ra cãi vã nhau về tiền bạc. Tháng 10 năm 2019, chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ đó cho đến nay. Vài lần anh C đến gọi chị về nhưng chị biết anh C không thay đổi nên chị cương quyết không trở lại nhà cha mẹ chồng. Trong thời gian đó hai vợ chồng chị sống ly thân cho đến nay. Do mục đích hôn nhân không đạt, không hạnh phúc nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị xin trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Lê D, sinh ngày 23/6/2017 và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị xác định không có.

Về nợ chung: Chị xác định không có.

Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn anh Phạm Văn C đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ 02 mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ đơn xin ly hôn nộp ngày 06 tháng 02 năm 2020, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là tranh chấp ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Bị đơn là anh Phạm Văn C có nơi cư trú tại số 41/1, đường số 566, ấp X, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi.

Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt do bận công việc. Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị L:

Chị L và anh C tự nguyện đăng ký kết hôn vào 2016, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, giấy chứng nhận kết hôn số 26/2016 ngày 29/4/2016, nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét mâu thuẫn phát sinh: Chị L trình bày nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do hai vợ chồng xảy ra cãi vã nhau về tiền bạc. Tháng 10 năm 2019, chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống đến nay. Hai vợ chồng chị bắt đầu sống ly thân từ đó, không ai quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để tạo điều kiện cho các đương sự hàn gắn tình cảm, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Tuy nhiên, bị đơn anh C vắng mặt, không gửi văn bản trình bày ý kiến của anh đối với vụ kiện. Qua đó đã thể hiện anh C không có nguyện vọng đoàn tụ và hàn gắn quan hệ vợ chồng. Đồng thời, chị L xác định chị và anh đã sống ly thân từ năm 2019. Xét thấy, chị L và anh C không còn tạo điều kiện cho nhau để thực hiện quyền, nghĩa vụ vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn kéo dài, đời sống chung trên thực tế không còn tồn tại. Do vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở.

[3]. Về con chung: Chị L và anh C có 01 con chung tên Phạm Lê D, sinh ngày 23/6/2017 và chị L xin trực tiếp nuôi con chung và tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, hiện con chung đang sống cùng chị L, chị L xin trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Do anh C vắng mặt nên không thể hiện ý kiến của anh C đối với con chung. Nhằm tạo điều kiện để cháu D phát triển bình thường cũng như đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu D, Hội đồng xét xử xét căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L tự nguyện không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của chị L. Tuy nhiên, vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 và khoản 2 Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng con chung.

Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

[5]. Về tài sản chung: Chị L xác định không có. Về nợ chung: Chị L xác định không có. Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

Bị đơn anh C vắng mặt tại phiên tòa, nếu có tranh chấp về con chung, tài sản chung và nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.

[6].Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự , Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; buộc nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo quy định là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117, 118, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

1. Về quan hệ hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Trúc L và anh Phạm Văn C.

2. Về con chung:

Giao chị Ly trực tiếp nuôi con chung tên Phạm Lê D, sinh ngày 23/6/2017.

Ghi nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 và khoản 2 Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng con chung.

Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

3. Về tài sản chung: Chị L xác định không có. Về nợ chung: Chị L xác định không có. Do anh C vắng mặt, nếu anh C có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ kiện khác.

4. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị L phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0083637 ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Củ Chi. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 826/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:826/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về