Bản án 82/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 82/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:57/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Thị Bích N, sinh năm 1980. Tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: Ấp ĐM, xã LP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn C, sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1952; Chồng: Nguyễn Văn T, sinh năm 1976, có 01 con sinh năm 2005;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/01/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Mai Việt H, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Ấp BM, xã LA, huyện LT, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

+ Anh Lê Văn B, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Ấp XG - BK, xã LP, huyện LT, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 14 giờ ngày 19/01/2020, Công an xã Long Phước phối hợp Công an huyện Long Thành kiểm tra hành chính hộ Ngô Thị Bích N tại tổ 2, ấp ĐM, xã LP, huyện LT phát hiện N và 02 đối tượng Mai Việt H, Lê Văn B đang sử dụng ma túy. Tại vị trí H và B đang ngồi có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 03 gói nylong kích thước 03 x 03 cm và 02 gói nylong kích thước 01 x 01 cm, bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy. H và B khai ma túy trên là của N, N khai nhận số tinh thể màu trắng trên là ma túy do N mua để sử dụng.

Quá trình điều tra xác định như sau: Ngô Thị Bích N nghiện ma túy từ năm 2018, trung bình khoảng 02 - 03 ngày, N sử dụng ma túy một lần, nguồn gốc ma túy do N mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vực chợ Long Thành thuộc khu CX, thị trấn LT, huyện LT.

Lúc 18 giờ ngày 18/01/2020, N có nhu cầu sử dụng ma túy nên gọi điện thoại cho Sơn (không rõ nhân thân lai lịch) để mua ma túy. Sơn đồng ý và hẹn N đến khu vực chợ Long Thành để giao ma túy. N đi xe buýt đến điểm hẹn, S đưa cho N 01 gói ma túy kích thước 03 x 03 cm và 02 gói ma túy kích thước 01 x 01 cm, N trả cho S 600.000 đồng. Sau khi mua ma túy, N mang về nhà lấy ra một ít sử dụng cho bản thân, số ma túy còn lại N cất trong hộp nhựa màu đen.

Đến 10 giờ ngày 19/01/2020, Mai Việt H và Lê Văn B đến nhà N chơi, thấy N đang sử dụng ma túy thì Hùng và Bình đến sử dụng chung thì bị lực lượng Công an bắt quả tang như nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon kích thước 03 cm x 03 cm và 02 túi nylon kích thước 01 cm x 01 cm được hàn kín, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng không rõ hình (có biên bản niêm phong).

Tại bản kết luận giám định số 129/KLGĐ-PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,9734 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 75/CT-VKSLT ngày 17 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Ngô Thị Bích N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ngô Thị Bích N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Ngô Thị Bích N mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 14 (mười bốn) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 129/KLGĐ-PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Thị Bích N khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy. Lúc 18 giờ ngày 18/01/2020, bị cáo đi xe buýt đến khu vực chợ Long Thành thuộc khu CX, thị trấn LT, huyện LT gặp người đàn ông tên Sơn (không rõ nhân thân lại lịch) mua 01 túi nylon kích thước 03 x 03 cm và 02 túi nylon kích thước 01 x 01 cm chứa ma túy với giá 600.000 đồng để đem về sử dụng cho bản thân. Sau khi mua ma túy, bị cáo mang về nhà cất giấu. Đến 10 giờ ngày 19/01/2020, Mai Việt H và Lê Văn B đến nhà bị cáo chơi, thấy bị cáo đang sử dụng ma túy nên vào sử dụng chung thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng vật chứng gồm 03 gói nylon kích thước 03 x 03 cm và 02 gói nylon kích thước 01 x 01 cm có khối lượng 0,9734 gam, loại: Methamphetamine. Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ngô Thị Bích N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm vào chế độ quản lý, sử dụng các chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức rõ được tác hại của ma túy mang lại nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, phải tuyên xử bị cáo một mức án tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 129/KLGĐ-PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[6] Đối với người tên Sơn bán ma túy cho N, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[7] Đối với Lê Văn B và Mai Việt H có hành vi sử dụng ma túy, Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi trên.

[8] Về án phí: Bị cáo Ngô Thị Bích N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Ngô Thị Bích N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Ngô Thị Bích N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong mẫu vật sau giám định số 129/KLGĐ-PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài liệu ngày 17/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ngô Thị Bích N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Ngô Thị Bích N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:82/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về