Bản án 82/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 82/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở UBND xã X, huyện L, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1971 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Kim Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Trần Thị V, và 03 con (con lớn nhất sinh năm 1991, con nhỏ nhất sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 03/8/2009, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc, bị cáo đã chấp hành xong bản án, đến nay đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/9/2019 đến ngày 09/10/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện tại ngoại (có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lê Thị H, sinh năm 1991; trú tại: Tổ dân phố V, thị trấn L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

Người làm chứng:

+ Anh Kiều Quang T, sinh năm 1971; trú tại: Thôn X, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

+ Anh Khổng Văn A, sinh năm 1979; trú tại: Thôn X, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng hơn 11 giờ ngày 30/9/2019 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Lê Văn T một mình đi xe máy biển kiểm soát 88D1-054.82 đến xã X, huyện L gặp và mua của một người đàn ông tên M (T không biết đặc điểm, tên tuổi, địa chỉ cụ thể) được 05 gói nhỏ ma túy heroine với giá 400.000đồng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi T điều khiển xe máy đi đến đường bê tông thuộc thôn X, xã X thì bị tổ công tác của Công an huyện Lập Thạch phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần bên trái T đang mặc 01 bọc nilon trong có 05 gói nhỏ được bọc giấy màu trắng có in chữ màu đen bên trong đều có chứa chất bột màu trắng, thu trong cốp xe máy của T 01 gói nhỏ bọc bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng, T khai đều là ma túy heroine mua về sử dụng cho bản thân (được niêm phong ký hiệu A1); 01 xe máy Honda màu đỏ - đen – bạc biển kiểm soát 88D1-054.82 đã cũ.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Lập Thạch đã tiến hành trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định chất ma túy đối với mẫu A1 thu giữ của T. Ngày 04/10/2019 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Văn bản số 2052/KLGĐ kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,3306g. Khối lượng heroine trong 0,3306g mẫu là 0,2005g. Cơ quan giám định đã hoàn lại mẫu vật A1 =0,1985g cùng toàn bộ bao gói.

Đối với người đàn ông tên Mđã bán ma túy cho T, quá trình điều tra xác định đối tượng Đỗ Đình M, sinh năm 1978, hiện tạm trú tại nhà chị Khổng Thị Lan A, sinh năm 1979 ở thôn V, xã V, huyện L. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh triệu tập nhiều lần nhưng hiện tại Đỗ Đình M và Khổng Thị Lan A không có mặt tại địa phương, nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

Vật chứng thu giữ:

- 0,3306 g heroine Cơ quan giám định hoàn mẫu = 0,1985g cùng toàn bộ bao gói được niêm phong.

- 01 xe máy honda màu đỏ - đen - bạc biển kiểm soát 88 D1-054.82 đã cũ là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị H (là con của Lê Văn T). Chị H không biết việc T cất giấu ma túy trong cốp xe, sử dụng xe đi mua ma túy.

Trước Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lập Thạch, Lê Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 80/CT-VKS-MT ngày 06/11/2019, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Văn T đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Văn T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, không phạt bổ sung, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Lê Thị H trình bày: Chị là con gái bị cáo T, ba ngày trước khi bị cáo T bị bắt về hành vi tàng trữ ma túy thì bị cáo có mượn xe mô tô biển kiểm soát 88 D1-054.82 của chị để đi đón con, đến ngày 30/9/2019, chị không biết việc bị cáo T sử dụng xe mô tô của chị để đi mua ma túy, chị đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe mô tô cho chị.

Bị cáo Lê Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người liên quan, biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định…. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/9/2019, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn X, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, Lê Văn T có hành vi tàng trữ ma túy thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 06 gói ma túy có khối lượng 0,3306 gam, hàm lượng 0,2005 gam Heroine; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 88D1-054.82.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do bị cáo Lê Văn T thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy… thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

…c,Heroine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội vì nó làm xói mòn đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng, phòng ngừa chung góp phần phục vụ việc giữ vững an ninh chính trị tại địa phương và làm gương cho người khác.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu rèn luyện để trở thành công dân tốt, không chịu làm ăn lương thiện mà lao vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo đã từng bị đưa ra xét xử đó là ngày 03/8/2009, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo về tội Đánh bạc, mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Việc tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo Lê Văn T thực hiện là để bị cáo sử dụng ma túy, chưa đem nguồn lợi gì cho gia đình, bản thân bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản gì lớn nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.

[5]. Đối với người đàn ông tên M, theo T khai là người đã bán ma túy cho T, quá trình điều tra xác định đối tượng Đỗ Đình M, sinh năm 1978, hiện tạm trú tại nhà chị Khổng Thị Lan A, sinh năm 1979 ở thôn V, xã V, huyện L. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh triệu tập nhiều lần nhưng hiện tại Đỗ Đình M và Khổng Thị Lan Akhông có mặt tại địa phương nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ để xử lý theo quy định.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- 01 xe máy honda màu đỏ - đen - bạc biển kiểm soát 88 D1-054.82 đã cũ là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị H (là con của Lê Văn T). Chị H không biết việc T sử dụng xe đi mua ma túy để sử dụng nên cần trả lại chiếc xe trên cho chị H. - 0,1985gam mẫu và bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy;

[7]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian đã tạm giữ từ ngày 30/9/2019 đến ngày 09/10/2019.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 0,1985gam mẫu vật và bao gói mẫu vật hoàn lại sau giám định;

Trả lại chị Lê Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 88 D1-054.82.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:82/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về