TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 82/2019/HSST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân quận B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 93/2019/HSST ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với:
* Bị cáo: Hoàng Thị H; Sinh năm: 1992; ĐKHKTT và nơi ở: Xóm S, xã P, P, T; Nghề nghiệp: Không. Văn hóa: 10/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Sán Dìu. Tôn giáo: Không. Họ và tên bố: Hoàng Văn B. Họ và tên mẹ: Trần Thị L; Chồng: Nguyễn Văn L (đã chết); Con: có 01 con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 10/01/2019. Được tạm tha ngày 18/01/2019. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14h50’ ngày 09/01/2019, tổ công tác đội Cảnh sát hình sự Công an quận B tiến hành kiểm tra hành chính khách sạn V tại số 97 N, phường T, quận B, thành phố Hà Nội. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện Nguyễn Quyết C (sinh năm: 1993, HKTT: Xóm 4, xã H, K, T) đang mua dâm của Lộc Hồng T (sinh năm: 1988, HKTT: xã T, Y, T) tại phòng 103; Phạm Minh Đ (sinh năm: 1993, HKTT: thôn 3, xã L, K, T) đang mua dâm của Nguyễn Thị C (sinh năm: 1989, HKTT: xã X, huyện T, T) tại phòng 201 nên đã đưa Nguyễn Quyết C, Lộc Hồng T, Phạm Minh Đ và Nguyễn Thị C về trụ sở để giải quyết. (Bút lục: 40, 42)
* Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ của Nguyễn Thị C (Bút lục: 118)
+ 01 Bao cao su nhãn hiệu Durex (chưa sử dụng);
+ 01 ĐTDĐ Iphone X màu trắng;
- Thu giữ của Phạm Minh Đ (Bút lục: 175)
+ Tiền mặt: 2.000.000 đồng
- Thu giữ của Lộc Hồng T (Bút lục: 143)
+ 01 ĐTDĐ Iphone 6S màu trắng;
+ Tiền mặt: 2.500.000 đồng;
- Thu giữ của Nguyễn Quyết C (Bút lục: 153)
+ 01 Bao cao su đã qua sử dụng.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Quyết C, Lộc Hồng T, Phạm Minh Đ, Nguyễn Thị C cùng khai nhận hành vi mua bán dâm như đã nêu trên. Ngoài ra C, T, C khai việc mua bán dâm là do Hoàng Thị H môi giới. (Bút lục: 100 đến 112; 129 đến 137; 146 đến 152; 170 đến 174) Cơ quan điều tra đã triệu tập, bắt khẩn cấp đối với Hoàng Thị H. (Bút lục: 11, 15).
Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Thị H khai: Khoảng 11h30’ ngày 09/01/2019 khi H đang ở nhà trọ tại số 35/229 Bạch Đằng, Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội thì Nguyễn Quyết C gọi điện thoại từ số 0967.523.993 đến số 0397.050.079 của H nói là cần 02 gái bán dâm để mua dâm cùng với bạn, H đồng ý và hẹn khi nào liên lạc được với gái bán dâm sẽ liên lạc với C. Đến khoảng 14h cùng ngày, H đến quán Karaoke ở số 21 phố C, B, Hà Nội gặp Nguyễn Thị C và bảo C cùng Lộc Hồng T đi bán dâm cho khách với giá 2 triệu đồng/người/lượt, C và T đồng ý. Sau đó, H nhắn tin Zalo cho C biết và báo giá bán dâm là 2 triệu đồng/người/lượt, C đồng ý và hứa thưởng cho H 500.000 đồng tiền công môi giới và sẽ đưa qua gái bán dâm. Đến khoảng 14h30’ C nhắn tin cho H đã đặt phòng 103 và 201 tại khách sạn V số 97 N nên H bảo C và T đi đến khách sạn V để bán dâm cho C. Khi bị bắt thì cơ quan điều tra thu giữ của H 01 ĐTDĐ Iphone 6 Plus màu vàng là điện thoại H dùng để liên lạc trong việc môi giới mại dâm. (Bút lục: 53 đến 73) Lời khai nhận của Hoàng Thị H phù hợp với lời khai của những người liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Đối với Nguyễn Quyết C, Phạm Minh Đ, Lộc Hồng T, Nguyễn Thị C, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý hành chính về hành vi mua bán dâm. (Bút lục: 184 đến 187) Đối với lễ tân khách sạn V là ông Lò Văn D (sinh năm 1990; HKTT: P , T, L), qua điều tra thấy ông D không liên quan đến việc môi giới mại dâm của H, ông D không biết việc C và Đức thuê phòng để mua dâm nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với chiếc ĐTDĐ Iphone 6S màu trắng và chiếc ĐTDĐ Iphone X màu trắng, qua điều tra thấy không liên quan đến vụ án và là tài sản hợp pháp của Nguyễn Thị C và Lộc Hồng T nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho C và T. (Bút lục: 180 đến 183) Đối với 01 bao cao su chưa qua sử dụng, Cơ quan điều tra đã thu giữ cần tiến hành tiêu hủy theo quy định.
Tại bản cáo trạng số: 88/CT-VKS ngày 26/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố Hoàng Thị H về tội Môi giới mại dâm được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Ngày 09/01/2019, tại quán Karaoke ở số 21 phố C, T, B, Hà Nội, Hoàng Thị H có hành vi môi giới mại dâm cho Lộc Hồng T và Nguyễn Thị C bán dâm cho Nguyễn Quyết C và Phạm Minh Đ với giá 2 triệu đồng/1 người/1 lượt tại khách sạn V ở số 97 N, phường T, B, Hà Nội. Hoàng Thị H được hưởng lợi số tiền 500.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Thị H về tội: “Môi giới mại dâm” theo điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su loại Durex đã qua sử dụng theo biên bản giao vật chứng số 76 ngày 25/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus mầu vàng, số IMEI: 355876065673398, số sim 0397050079 đã qua sử dụng theo biên bản giao vật chứng số 76 ngày 25/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội và số tiền 4.500.000đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 25/4/2019 Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội.
Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và lời nói sau cùng trước khi hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Hoàng Thị H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, lời khai của những người mua bán dâm, tang vật thu giữ trong vụ án cùng các tài liệu có trong hồ sơ. Đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/01/2019, tại quán Karaoke ở số 21 phố C, T, B, Hà Nội, Hoàng Thị H có hành vi môi giới mại dâm cho Lộc Hồng T và Nguyễn Thị C bán dâm cho Nguyễn Quyết C và Phạm Minh Đ với giá 2 triệu đồng/1 người/1 lượt tại khách sạn V ở số 97 N, phường T, B, Hà Nội. Hoàng Thị H được hưởng lợi số tiền 500.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến đạo đức, thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội, làm cho tệ nạn mại dâm ngày càng gia tăng, làm lây lan căn bệnh thế kỷ HIV- AID. Do vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[4] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xét đến tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, chồng bị cáo đã chết, con bị cáo còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo là người dân tộc thiểu số. Xét lượng hình thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nên áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sớm về hòa nhập với cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền được quy định tại khoản 4 Điều 328 Bộ luật hình sự.
Song xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su loại Durex đã qua sử dụng theo biên bản giao vật chứng số 76 ngày 25/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus mầu vàng, số IMEI: 355876065673398, số sim 0397050079 bị cáo dùng để liên lạc với người mua bán dâm và số tiền 4.500.000đồng là tiền mua dâm và tiền hứa thưởng cho việc môi giới bán dâm cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự 2015, Điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị H 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “môi giới mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ 10/01/2019 đến ngày 18/01/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Căn cứ Điểm c, Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a, Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 bao cao su loại Durex chưa qua sử dụng theo biên bản giao vật chứng số 106 ngày 25/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus mầu vàng, số IMEI: 355876065673398, số sim 0397050079 đã qua sử dụng theo biên bản giao vật chứng số 76 ngày 25/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội và số tiền 4.500.000đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 25/4/2019 Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hà Nội.
- Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày 21 tháng 5 năm 2019./.
Bản án 82/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 82/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về