Bản án 82/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 82/2019/HS-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn H, tên gọi khác: không có; sinh ngày 24/8/1988, tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Lại Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 23/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 22/02/2019 chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 16/5/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Lê Đình C, sinh năm: 1982.

Địa chỉ: Tổ 3, khu Bạch Đằng 1, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Bùi Văn P, sinh năm: 1967.

Địa chỉ: Tổ 1, khu Hiệp An 1, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 10 phút, ngày 16/5/2019, tại tổ 1, khu Hiệp Thái, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, công an thành phố U, phối hợp với Công an phường P, phát hiện bắt quả tang Lê Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi thấy tổ công tác H thả trên tay trái xuống nền đường, gần vị trí H đứng 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (02x02)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã phát hiện thu giữ túi nilon trên.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa Lê Văn H khai nhận: Khoảng 14 giờ, ngày 16/5/2019 H gọi điện cho người tên L (không rõ lai lịch, địa chỉ) để mua ma túy “đá” về sử dụng. Sau đó H điều khiển xe mô tô BKS 15C1-164.43 đến chân cầu Đá Bạc, thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí gặp L. Tại đây L gọi điện cho một người đàn ông không quen biết đến, H hỏi mua ma túy “đá” của người này với giá 200.000 đồng. Người này nhận tiền rồi bảo H nhặt ở dưới đất 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (02x02)cm chứa chất tinh thể màu trắng. H cầm túi nilon trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô chở L đi. Khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, cả hai đến một quán nước tại khu vực tổ 1, khu Hiệp Thái, phường P, thành phố U thì bị Công an kiểm tra, L nhảy xuống xe bỏ chạy, H hoảng sợ thả túi nilon trên tay trái xuống đất, nhưng bị Công an phát hiện, thu giữ ma túy và một số đồ vật, tài sản Hà mang theo.

Tại bản Kết luận giám định số 389, ngày 18/5/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lê Văn H gửi giám định là ma túy; Loại Methamphetamie; khối lượng 0,924 gam.

Tại cáo trạng số: 84/CT-VKSUB ngày 16/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/5/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, đề nghị HĐXX không áp dụng.

+ Đối với người đàn ông tên L và người đàn ông bán ma túy cho H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân, nên không đề cập xử lý.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 389/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn, 01 ống thủy tinh màu trắng dài khoảng 15 cm, một đầu thẳng một đầu uốn cong có bầu tròn, 01 điện thoại di động không có nhãn hiệu, màu đen, cùng sim số 0363.492.322.

+ Đối với chiếc xe mô tô Honda Wave S, màu đỏ đen, BKS 15C1-164.43, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sỡ hữu là bà Lại Thị H, nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến anh Lê Đình C, anh Bùi Văn P và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố Uông Bí lập hồi 15 giờ 25 phút, ngày 16/5/2019, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 10 phút, ngày 16/5/2019, tại tổ 1, khu Hiệp Thái, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh Lê Văn H là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,924 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, bị cáo đã bị xử phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại cố ý phạm tội, nên cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc với bị cáo.

*Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm”, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

* Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy Methamphetamine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tang trữ, lưu hành; 01 ống thủy tinh dài 15 cm và chiếc điện thoại di động không nhãn mác, màu đen cùng sim điện thoại, là những vật không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Những tình tiết khác trong vụ án: Đối với người đàn ông tên L và người đàn ông bán ma túy cho H, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân, nên không đề cập xử lý.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bốBị cáo Lê Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma  tuý”.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Văn H 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 389/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 ống thủy tinh màu trắng dài khoảng 15 cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có gắn bầu tròn; 01 điện thoại di động không nhãn hiệu, màu đen trắng cùng sim liên lạc số 0363.492.322.

(Số vật chứng trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:82/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về