Bản án 82/2018/HS-ST ngày 09/08/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 82/2018/HS-ST NGÀY 09/08/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 72/2018/HSST ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/HSST-QĐ ngày 19/7/2018 đối với các bị cáo:

1/ Trịnh Thị S, sinh ngày 16/4/1968

Nơi cư trú: tổ 15, phường T, thành phố T, tỉnh Q; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trịnh Thế Ch và bà Trịnh Thị L (đều đã chết) Anh, chị em ruột: Có 07 người, bị cáo là thứ 7; Chồng là Lê Văn Ph (đã chết); Con có 01 con, sinh năm 1988; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/10/1997, Toà án nhân dân thị xã Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù giam về tội Đánh bạc. Ngày 21/11/1998, Toà án nhân dân tỉnh Tuyên quang xử phạt 11 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Ngày 27/3/2009, Toà án nhân dân thị xã Tuyên Quang xử phạt 3 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý.

* Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2018 đến ngày 07/02/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

2/ Trịnh Quốc Kh, sinh ngày 02/9/1991

Nơi cư trú: tổ 15, phường TQ, thành phố T, tỉnh Q; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; con ông Trịnh Mạnh H, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; Anh, chị em ruột: Không có; Vợ là Lê Kim O, sinh năm 1996; Con có 01 con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/7/2015, bị Tòa án nhân thành phố Tuyên Quang xử phạt 5 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 01 năm, về tội Đánh bạc

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

3/ Nguyễn Văn H, sinh ngày 17/4/1955

Nơi cư trú: tổ 15, phường TQ, thành phố T, tỉnh Q; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Phạm Thị H (đều đã chết) Anh, chị em ruột: Có 07 người, bị cáo là thứ ba; Vợ là Đặng Thị N, sinh năm 1956; Con có 03 con, con lớn sinh năm 1977, con nhỏ sinh năm 1982; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 01/6/2001, Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

* Những người làm chứng: Anh Trương Thanh H – vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong 02 ngày 02/02/2018 và ngày 03/02/2018, Trịnh Thị S, sinh năm 1968, có hành vi đánh bạc (đánh số lô, số đề) trái phép được, thua bằng tiền với Trịnh Quốc Kh; Nguyễn Văn H cùng trú tại tổ 15, phường T Q, thành phố T, tỉnh Q và Trương Thanh H, cư trú tại tổ 27, phường X, thành phố T, tỉnh Q. Những người đánh số lô, số đề đã thoả thuận với nhau về hình thức đánh là căn cứ vào kết quả mở thưởng xổ số Miền Bắc hồi 18 giờ 15 phút hàng ngày để trả tiền khi người đánh trúng số lô, số đề, cụ thể như sau.

- Đánh số đề (mua số đề) là người đánh tự chọn hai số từ số 00 đến 99, đánh với mức tiền bao nhiêu tuỳ ý; khi có kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc, nếu hai số của người đánh trùng với hai số cuối của giải đặc biệt, thì người đánh trúng số đề (thắng bạc) và được trả gấp 70 lần số tiền đã đánh.

- Đánh lô điểm (mua lô điểm) người đánh tự chọn các số từ 00 đến 99 với mức tiền 21.750đ/1 điểm. Khi có kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền bắc, nếu hai số của người đánh trùng với hai số của bất kỳ giải nào trong các giải thì người đánh trúng số lô (thắng bạc) và được trả 80.000đ/1 điểm lô. Nếu cặp số của người đánh trùng với hai số ở nhiều giải, thì được trả tương ứng với số lần trùng số (trùng số hai lần thì nhân gấp hai lần, trùng số ba lần thì nhân gấp ba lần...). Trịnh Thị Sâm, Nguyễn Văn Hải, Trịnh Quốc Kh và Trương Thanh H đánh bạc với nhau bằng hình thức soạn tin nhắn ghi các số lô, số đề, số tiền đánh và gửi tin nhắn vào số điện thoại di động của Sâm 0904.009.569 và số 01643.450.225 để đánh số lô, số đề được thua bằng tiền, cụ thể như sau.

* Ngày 02/02/2018:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1955, cư trú tại tổ 15, phường TQ, thành phố T, tỉnh Q dùng điện thoại di động số 0989.773.016 gửi tin nhắn vào số điện thoại di động 01643450225 của Sâm để đánh (mua) số đề với Sâm, gồm: Đầu 7 (có 10 số mỗi số 20.000 đ = 200.000đ; 04 số mối số 50.000đ = 200.000đ; 04 số mỗi số 150.000đ = 600.000đ. Tổng số tiền Hải đánh số đề với Sâm là 1.000.000đ. H trúng số đề 73 với số tiền đánh là 70.000đ (trong đó có đầu 7 = 20.000đ)x 70 lần = 4.900.000đ.

Như vậy tổng số tiền H đánh bạc với S ngày 02/02/2018 là 1.000.000đ + 4.900.000đ = 5.900.000đ. H và S chưa thanh toán tiền đánh bạc cho nhau.

* Ngày 03/2/2018

- Trịnh Thị S dùng số điện thoại di động 0904.009.569 gửi tin nhắn vào số điện thoại số 0969462458 của Trịnh Quốc Kh, sinh năm 1991, cư trú tại tổ 15, phường TQ thành phố T, tỉnh Q, đánh số lô, số đề với K:

+ Số đề: 04 số mỗi số 1.000.000đ = 4.000.000đ.

+ Lô điểm: 04 số mỗi số 150 điểm = 600 điểm x 21.750đ/1 điểm = 13.050.000đ. Tổng số tiền S đánh bạc với Kh là 17.050.000đ.

- Trịnh Thị S dùng điện thoại di động số 01643450225 gửi tin nhắn đến số điện thoại di động số 01628693583 của Trương Thanh H, sinh năm 1980, cư trú tại tổ 27, phường X, thành phố T, tỉnh Q, đánh với H 20 số đề mỗi số 50.000đ = 1.000.000đ.

Như vậy tổng số tiền S đánh bạc với Kh và H ngày 03/02/2018 là 17.050.000đ + 1.000.000đ = 18.050.000đ. Việc S, Kh và H đánh bạc (ghi số lô, số đề) bị phát hiện trước thời điểm có kết quả sổ số Miền Bắc mở thưởng nên chưa tính thắng thua và chưa thanhtoán tiền cho nhau.

Tại bản Cáo trạng số 74/ CT-VKSTP ngày 04 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố các bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh và Nguyễn Văn H phạm tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang gữi nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh, Nguyễn Văn H. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo phạm tội: Đánh bạc.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Thị S từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Phạt tiền từ 10.000.000 (mười triệu) đồng đến 12.000.000 (mười hai triệu) đồng sung quỹ nhà nước. Truy thu số tiền bị cáo dùng tham gia đánh bạc là 18.050.000đ sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc Kh từ 07 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 14 tháng đến 18 tháng.

Phạt tiền từ 10.000.000 (mười triệu) đồng đến 12.000.000 (mười hai triệu) đồng sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

Phạt tiền từ 10.000.000 (mười triệu) đồng đến 12.000.000 (mười hai triệu) đồng sung quỹ nhà nước. Truy thu số tiền bị cáo dùng tham gia đánh bạc là 1.000.000đ sung quỹ nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 5s, 01 diện thoại Iphone 7 của Trịnh Thị S. 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của Nguyễn Văn H. Tịch thu tiêu huỷ 02 sim điện thoại của Trịnh Thị S; 01 sim của Nguyễn Văn H.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

* Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với các bị cáo; các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì và nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và không có ý kiến đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh qua biên bản kiểm tra dữ liệu trong điện thoại, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày từ ngày 02/02/2018 và ngày 03/02/2018, tại địa bàn thành phố T, tỉnh Q. Trịnh Thị S; Trịnh Quốc Kh, Nguyễn Văn H cùng cư trú tại tổ 15, phường TQ, thành phố T, tỉnh Q và Trương Thanh H, cư trú tại tổ 27, phường X, thành phố T, tỉnh Q đã có hành vi đánh bạc (bằng hình thức ghi số lô, số đề) trái phép được thua bằng tiền, cụ thể:

- Ngày 02/02/2018, Nguyễn Văn H và Trịnh Thị S đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 5.900.000đ.

- Ngày 03/02/2018 Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh, Trương Thanh H đánh bạc trái phép với tổng số tiền là 18.050.000đ. trong đó.

+ Trịnh Thị S đánh bạc trái phép với Trịnh Quốc Kh tổng số tiền là 17.050.000đ.

+ Trịnh Thị S đánh bạc trái phép với Trương Thanh H, tổng số tiền là 1.000.000đ.

Các bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số đề, số lô với tỷ lệ sát phạt được thua bằng tiền. Hành vi của các bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án này, các bị cáo bị truy tố về tội “Đánh bạc”, Theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Thị S có hành vi tham gia đánh bạc nhiều lần, số tiền dùng vào việc phạm tội đủ định lượng cấu thành tội phạm nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội từ 02 lần trở lên’.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Do vậy, các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, bị cáo Hải được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51.

Bị cáo Trịnh Thị S có bố đẻ được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi đảng, người tham gia cách mạng trước năm 1945, bị cáo có anh trai ruột là Liệt sĩ và bị cáo đang trực tiếp thờ cúng liệt sĩ, tự nguyện nộp tiền tại cơ quan thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang số tiền 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng) để sửa chữa sai lầm. Bị cáo Trịnh Quốc Kh có bác ruột là liệt sĩ, có ông Nội được tặng Huy hiệu 40 năm tuổi đảng, người tham gia cách mạng trước năm 1945, có xác nhận tổ trưởng tổ dân phố, xác nhận của UBND Phường Tân Quang bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo có 01 con nhỏ sinh năm 2015, vợ bị cáo không có công ăn việc làm lại đang mang thai con thứ hai. Do vậy bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về mức án đối với các bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nhất là trong tình hình hiện nay tệ nạn cờ bạc, số đề đang diễn ra hàng ngày. Các bị cáo vì hám lợi, tin vào sự may rủi, nhằm vừa thoả mãn lợi nhuận do may mắn lại vừa thoả mãn sự sát phạt lẫn nhau. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

Trong vụ án này, Trịnh Thị S có hành vi bán, mua số đề cho những người chơi để hưởng lợi bất chính, nếu có ai trúng đề thì trả theo định ước. Hành vi đó đã tạo điều kiện cho các con bạc đánh bạc và làm gia tăng tệ nạn xã hội. Do vậy cần phải xử bị cáo mức án cao nhất. Trịnh Quốc Kh, có hành vi bán số đề với Trịnh Thị S, Nguyễn Văn H có hành vi đánh bạc với Trịnh Thị S về số lần tương đương nhau. Nhưng trong đó, số tiền Kh dùng vào việc đánh bạc lớn hơn, nên cần xử mức án cao hơn bị cáo H.

Bị cáo Kh có nhân thân xấu tuy nhiên đã xoá án tích, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo nên xét thấy không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn H có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là cải tạo không giam giữ là phù hợp. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, tuổi cao nên miễn khoản khấu trừ thu nhập trong thời gian chấp hành án.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 3 Điều 321 BLHS quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đ đến 50.000.000đ”. Xét thấy các bị cáo phạm tội nhằm mục đích vụ lợi nên ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Quá trình điều tra, Trịnh Thị S khai nhận ngày 03/02/2018 Sâm còn bán số lô, số đề cho Cáy Trung C, sinh năm 1974 cư trú tại tổ 39, phường X, thành phố T, tỉnh Tuyên Q, tổng số tiền là 20.360.000đồng. Vũ Ngọc H, sinh năm 1970, cư trú tại Đội 1, xã Bản Vược, huyện BX, tỉnh LC, tổng số tiền là 17.080.000đ; Nguyễn Như H, sinh năm 1968, cư trú tại tổ 11, phường PT, thành phố T, tỉnh Q, tổng số tiền là 20.210.000đ và 01 người tên T (không biết rõ tên tuổi, nơi ở) tổng số tiền là 48.000.000đ. Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra, nhưng không chứng minh được hành vi đánh bạc của Cáy Trung C, Vũ Ngọc H. Đối với Nguyễn Như H, Cơ quan điều tra đã triệu tập, xác minh nhiều lần nhưng không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra đã tách ra để xác minh xử lý khi có đủ căn cứ. Đối tượng tên T, không biết rõ tên tuổi, nơi ở nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với hành vi đánh bạc của Trương Thanh H, số tiền đánh bạc dưới 5.000.000đ, nhân thân không có tiền án, tiền sự, do đó hành vi không cấu thành tội phạm; Cơ quan Cảnh sát điều tra– Công an thành phố Tuyên Quang đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 84 ngày 02/3/2018, phạt tiền 1.500.000đ nên HĐXX không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Tuyên Quang tạm giữ của Trịnh Thị S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5s, IMEI: 358813052775743, bên trong có 01 sim số 01643450225; 01 điện thoại Iphone 7, IMEL 359163075963093, bên trong có 01 sim số 0904009569. Tạm giữ của Nguyễn Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, bên trong có 01 sim số 0989773016, là vật chứng của vụ án cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cần truy thu sung quỹ nhà nước.

[8] Về án phí: Các bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh, Nguyễn Văn H phạm tội: Đánh bạc.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Căn cứ: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Thị S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án (khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm gữi từ ngày 04/2/2018 đến ngày 07/02/2018).

Phạt bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng sung quỹ nhà nước. Khấu trừ cho bị cáo số tiền 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng) đã tự nguyện nộp tại chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Theo biên lai số 0000447 ngày 01/8/2018 bị cáo còn phải nộp phạt là 7.800.000đ (bảy triệu tám trăm nghìn đồng).

- Căn cứ: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc Kh 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND phường T, thành phố T, tỉnh Q giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự. Phạt bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng sung quỹ nhà nước.

- Căn cứ: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Hải cho UBND phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Q giám sát và giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung 10.000.000 (mười triệu) đồng sung quỹ nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng và số tiền sử dụng vào việc đánh bạc:

- Căn cứ Điều 47 bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 5s, 01 diện thoại Iphone 7 của Trịnh Thị Sâm. 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của Nguyễn Văn H. Tịch thu tiêu huỷ 02 sim điện thoại của Trịnh Thị S; 01 sim của Nguyễn Văn H (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 10/7/2018).

- Truy thu của bị cáo Trịnh Thị S số tiền là 18.050.000đ (mười tám triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng. Truy thu của bị cáo Nguyễn Văn H số tiền là 1.000.000đ (một triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Các bị cáo Trịnh Thị S, Trịnh Quốc Kh, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2018/HS-ST ngày 09/08/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:82/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về