Bản án 819/2019/HS-PT ngày 11/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 819/2019/HS-PT NGÀY 11/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 460/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Minh BC1 và các bị cáo khác. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 253/2019/HSST ngày 12-7-2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Minh BC1, giới tính: Nam; sinh ngày 29 tháng 8 năm 1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 909/5 V1, phường D1, quận D2, Thành phố Hồ Chí Minh, ch ở: 195/11 V5, Phường 15, quận D3, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch:Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Phạm Văn S và bà: Nguyễn Thị P; vợ: Nguyễn Thị Tường V và có 01 người con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2018 (có mặt).

2. Võ Thái Nhật BC2, giới tính: Nam; sinh ngày 12 tháng 5 năm 1981, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:115 V2, Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Võ Văn H và bà Thái Thị D; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: - Ngày 15/6/2005 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 30 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản". Ngày 06/5/2009 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội "Cướp giật tài sản"; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2018 (có mặt).

3. Đỗ Hoàng BC3, giới tính: Nam; sinh ngày 21 tháng 9 năm 1992, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1041/62/40/9A V3, tổ 12, khu phố 5, phường D6, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; ch ở: A3/8BV3 đường số 1, khu dân cư Bình Đăng, xã D4, huyện D5, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: không; con ông Đ Văn M và bà Nguyễn Thị Hoàng Y; tiền sự: không; tiền án: 01 - Ngày 21/3/2012 bị Tòa án nhân dân Quận 8 xử phạt 07 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" (chấp hành xong ngày 29/4/2016); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2018 (có mặt).

Người bào chữa cho các bị cáo :

- Luật sư Đ Ngọc O - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Phạm Minh BC1 (có mặt);

- Luật sư Lê Thị Công D - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Võ Thái Nhật BC2 (có mặt);

- Luật sư Lương Văn T1- Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Đ Hoàng BC3 (có mặt).

(Trong vụ án còn có bị cáo Văn Công T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ ngày 02/04/2018, tại trước nhà số 310 Điện Biên Phủ, Phường 11, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 10 phối hợp với Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra bắt quả tang Văn Công T có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán cho người khác. Thu giữ: trong túi quần phía trước bên phải của T 02 gói nylon chứa tinh thể không màu; trong hộc phía trước bên trái của xe máy do T đang sử dụng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, tại bửng chắn bùn phía trước xe 01 gói nylon chứa tinh thể không màu và tại ch ở của T tại địa chỉ 108 đường V4, Phường 6, Quận 8 có 04 gói nylon chứa tinh thể không màu. Qua giám định số tang vật thu giữ của T là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 41,41g, loại Methamphetamine (MA) và Heroin. Riêng số ma túy thu giữ tại ch ở của T là ma túy thể rắn, có khối lượng 2,3056g, loại Methamphetamine (T khai để sử dụng).

Tiếp tục truy xét: Lúc 22 giờ 45 phút, ngày 02/4/2018 tại số A3/8BV3 đường số 1, khu dân cư Bình Đăng, xã D4, huyện D5, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan điều tra Công an Quận 10 bắt quả tang Đ Hoàng BC3 có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý để bán cho người khác. Thu giữ của BC3 04 gói nylon chứa tinh thể không màu, 02 gói nylon chứa tinh thể màu vàng, qua giám định là ma tuý ở thể rắn, tổng khối lượng 97,5236g, loại Methamphetamine.

Lúc 00 giờ 30 phút ngày 03/4/2018, tại trước nhà số A3/8BV3 đường số 1, khu dân cư Bình Đăng, xã D4, huyện D5, Thành phố Hồ Chí Minh Cơ quan điều tra Công an Quận 10 phát hiện Võ Thái Nhật BC2 đang điều khiển xe gắn máy biển số 49D1-230.03 chở Phạm Ngọc I có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang BC2 có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý để bán cho người khác. Thu giữ của BC2 số ma tuý qua giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 356,9264g, loại Methamphetamine và MDMA.

Lúc 23 giờ 25 phút ngày 03/4/2018, tại số 905/5 V1, phường D1, quận D2, Thành phố Hồ Chí Minh Cơ quan điều tra Công an Quận 10 bắt quả tang Phạm Minh BC1 có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý để bán cho người khác. Thu giữ của BC1 09 gói nylon chứa tinh thể không màu, 03 gói nylon chứa tinh thể không màu, 06 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa 350 viên nén màu xanh. Khám xét khẩn cấp ch ở của BC1 tại địa chỉ 195/11 V5, Phường 15, quận D3, thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Số tang vật thu giữ của BC1 qua giám định là ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng 3.287,5131g, loại Methamphetamine, Heroin, MDMA.

(Vật chứng thu giữ là ma túy trong vụ án đã được giám định theo Kết luận giám định số 681, 682, 683, 684/KLGĐ-H ngày 09/4/2018 và 690, 691/KLGĐ- H ngày 11/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Văn Công T khai nhận: khoảng 18 giờ ngày 02/4/2018, có 01 thanh niên (không rõ lai lịch) điện thoại đặt mua 4.500.000 đồng ma tuý đá và hẹn giao nhận tại khu vực Kỳ Hoà, Quận 10, T đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe gắn máy biển số 54L3-7456 đến nhà số A3/8BV3 đường số 1, khu dân cư Bình Đăng, xã D4, huyện D5 mua của Đ Hoàng BC3 4.500.000 đồng ma tuý đá, rồi mượn xe gắn máy biển số 59C2-773.02 của BC3 chạy đến điểm hẹn để bán ma tuý cho người thanh niên, trên đường đi thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Đối với số ma tuý bị thu giữ khi khám xét tại nơi ở, T cất giữ để sử dụng dần thì bị thu giữ.

Đ Hoàng BC3 khai nhận mua bán ma túy từ tháng 3/2018 đến khi bị bắt. Ban đầu, BC3 mua ma túy đá của R2 (không rõ lai lịch ở quận D2) được 03 lần để bán lại cho người khác. Sau đó, BC3 chuyển qua mua ma túy của Võ Thái Nhật BC2, cụ thể: Ngày 01/4/2018, BC3 mua 100g ma túy đá với giá 41.000.000 đồng và ngày 02/4/2018, BC3 tiếp tục mua của BC2 100g ma túy đá với giá như lần trước. Sau khi mua được ma túy, BC3 đem về nhà phân chia bán lại cho nhiều người (không rõ lai lịch) trong đó có Văn Công T, riêng lần cuối cùng vào ngày 02/4/2018, BC3 đã bán cho T 02 hộp 10 ma túy đá và 05 chỉ Heroine với giá 23.000.000 đồng. Sau đó BC3 bị Công an Quận 10 bắt quả tang thu giữ số ma túy còn lại chưa kịp tiêu thụ như trên.

Võ Thái Nhật BC2 khai nhận: mua bán ma tuý từ đầu tháng 4/2018 đến khi bị bắt. Nguồn ma túy, BC2 mua của Phạm Minh BC1 được 03 lần; 02 lần đầu vào ngày 01/4/2018 và buổi trưa ngày 02/4/2018, mỗi lần BC2 mua của BC1 100g ma túy đá với giá 40.000.000 đồng; cả hai lần này BC2 đều bán cho Đ Hoàng BC3 (phù hợp với lời khai của BC3 và BC1). Riêng lần thứ 3, vào khuya ngày 02/4/2018, BC2 tiếp tục mua 350g của BC1 với giá 140.000.000 đồng, đồng thời BC1 đưa cho BC2 02 viên thuốc lắc để BC2 chào bán dùm. Nhận ma túy xong, BC2 điều khiển xe máy đến nhà của Đ Hoàng BC3 để chào bán tiếp 100g với giá 41.000.000 đồng nhưng khi vừa đến trước nhà thì BC2 bị bắt quả tang cùng vật chứng như trên.

Phạm Minh BC1 khai nhận phù hợp với lời khai của Võ Thái Nhật BC2. Ngoài ra, BC1 khai nhận đã tham gia mua bán ma túy từ tháng 01/2018 đến khi bị bắt. Nguồn ma túy đá, BC1 mua của một người tên X1 (không rõ lai lịch) được 02 lần; lần đầu vào cuối tháng 3/2018, BC1 mua của X1 02kg với giá 720.000.000 đồng; lần thứ 2 vào ngày 01/4/2018, BC1 tiếp tục mua 02kg ma túy của X1 với giá như lần đầu; nguồn ma túy Heroine BC1 mua của một người tên X2 (không rõ lai lịch) 01 bánh với giá 230.000.000 đồng vào ngày 30/3/2018;

nguồn ma túy thuốc lắc BC1 mua của một người tên X3 (không rõ lai lịch) 1.000 viên với giá 170.000.000 đồng vào ngày 02/4/2018. Sau khi mua được ma túy, BC1 bán lại cho nhiều đối tượng không rõ lai lịch, trong đó BC1 đã bán cho Võ Thái Nhật BC2 03 lần, với khối lượng 550g ma túy đá và 02 viên thuốc lắc (phù hợp với lời khai của BC2). Ngày 03/4/2018, BC1 bị Công an Quận 10 bắt thu giữ toàn bộ số ma túy còn lại chưa kịp tiêu thụ.

Trong quá trình điều tra về sau Văn Công T và Đ Hoàng BC3 thay đổi lời khai không thừa nhận đã mua bán ma túy với nhau như đã nêu trên.

Đối với Phạm Ngọc I, do xác định I chỉ là bạn gái của Võ Thái Nhật BC2 không liên quan đến vụ án nên không bị xử lý.

Đối với các đối tượng X1, X2, X3, X4, do Phạm Minh BC1 và Đ Hoàng BC3 khai không rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ:

+ Thu giữ của Đ Hoàng BC3: 05 (năm) gói niêm phong ghi số 681/18 (gói 1, gói 2, gói 3, gói 4, gói 5) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh K1 và cán bộ điều tra Đ Quốc K2; 01 cân điện tử, 20 gói nylon r ng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 điện thoại di động Iphone màu trắng vàng; 01 xe gắn máy hiệu Suzuki biển số 54L3-7456, SK: RLSCF4EE090136919, SM: F4A5-140279. Đ Hoàng BC3 khai không rõ nguồn gốc vì xe của Văn Công T gửi ở nhà của BC3 vào ngày 02/4/2018. Văn Công T khai mua xe trên của anh Võ Văn J (sinh năm: 1990, HKTT: ấp C1, xã C2, huyện C3, tỉnh Trà Vinh; Ch ở: 1430 R, xã D4, huyện D5) khoảng tháng 8/2017 (có giấy mua bán viết tay) sử dụng làm phương tiện đi lại, đến ngày 02/4/2018 T điều khiển xe máy đến nhà BC3 gửi, rồi T mượn xe máy của BC3 có biển số 59C2-773.02 đem ma túy đi bán thì bị bắt. Anh Võ Văn J trình bày, khoảng tháng 8/2017, BC2 mua xe máy biển số 54L3-7456 tại khu vực bán xe trên đường R, huyện D5 với giá 6.400.000 đồng sau đó đã bán lại xe này cho Văn Công T (phù hợp với lời khai của T như đã nêu trên). Kết quả xác minh được biết xe máy 54L3-7456 do chị Huỳnh Thị Diễm R3 (sinh năm: 1977, HKTT: 58 đường 105 Trịnh Quang Nghị, phường 7, quận 8) đứng tên đăng ký sở hữu, qua xác minh hiện nay chị Thúy đã bán nhà đi đâu không biết địa chỉ nên không mời làm việc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã gửi công văn đề nghị Cổng thông tin điện tử - Công an Tp. Hồ Chí Minh và Báo Công an Tp. Hồ Chí Minh đăng thông báo truy tìm chủ sở hữu xe nhưng cho đến nay chưa có ai đến liên hệ để giải quyết.

+ Thu giữ của Võ Thái Nhật BC2: 03 (ba) gói niêm phong ghi số 682/18 (gói 1, gói 2, gói 3) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh K1 và cán bộ điều tra Đ Quốc K2; 01 cân điện tử, 01 điện thoại di động Oppo; 01 xe gắn máy loại SH mode, hiệu Honda biển số 49D1-23003, SK: RLHJF5109DY047999, SM: JF51E-0048028. Võ Thái Nhật BC2 khai mượn xe của Phạm Minh BC1 (bị can cùng vụ án) để sử dụng sau đó BC2 đi bán ma túy thì bị bắt. Phạm Minh BC1 khai phù hợp với lời khai của BC2, BC1 cũng không rõ nguồn gốc xe này vì BC1 cầm của một người tên là R1 ở quận 12 (không rõ lai lịch) với giá 20.000.000 đồng. Kết quả điều tra, xác minh được biết xe trên do anh Nguyễn Trọng Minh R4 (sinh năm: 1984, HKTT: số 11, tổ dân phố Quảng Đức, thị trấn Q2, huyện Q1, tỉnh Lâm Đồng) đứng tên đăng ký sở hữu. Anh R4 đứng tên đăng ký sở hữu dùm xe này cho chị ruột là Nguyễn Thị Minh Thư. Chị R3 trình bày, tháng 8/2017 đem xe xuống nhà số 15/10/12 Nguyễn Ngọc Lộc, Phường 14, Quận 10 để làm phương tiện đi lại thì bị kẻ gian cắt khóa cửa nhà lấy trộm xe.

+ Thu giữ của Văn Công T: 04 (bốn) gói niêm phong ghi số 683/18 (gói 1, gói 2, gói 3, gói 4) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh K1 và cán bộ điều tra Nguyễn Thị Bích K3; 02 (hai) gói niêm phong ghi số 684/18 (gói 1, gói 2) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Võ Anh K1 và cán bộ điều tra Nguyễn Thị Bích K3; 01 điện thoại di động Huawei, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 cân điện tử; 01 xe gắn máy loại Vario, hiệu Honda biển số 59C2-773.02, SK: MH1KF1128HK323915, SM: KF11E-2319154. Kết quả điều tra xe do Đ Hoàng BC3 đứng tên đăng ký sở hữu sử dụng, đến ngày 02/4/2018 BC3 cho Văn Công T mượn để đi bán ma túy thì bị bắt.

+ Thu giữ của Phạm Minh BC1: 01 (một) gói niêm phong ghi số 690/18 bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh K4 và cán bộ điều tra; 04 (bốn) gói niêm phong ghi số 691/18 (gói 1, gói 2, gói 3, gói 4) bên ngoài có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh K4 và cán bộ điều tra; 01 cân điện tử, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 két sắt, 01 điện thoại di động Iphone; Tiền VND: 200.000.000 đồng (đã nộp Kho bạc nhà nước quận 10). Ban đầu BC1 khai số tiền này là tiền bán ma túy mà có. Tuy nhiên quá trình điều tra, BC1 khai số tiền trên là tiền cá nhân của BC1 để dành, do trước đó BC1 có làm công việc sửa chữa điện tử và cho bạn bè ngoài xã hội vay tiền góp mà có; 01 xe gắn máy loại Click, hiệu Honda, biển số 69E1-293.66, SK: MLHJF3503G5332344, SM: JF350E-0332344. Kết quả điều tra do anh Bùi Văn R5 (sinh năm: 1985, HKTT: ấp Q4, xã Q5, huyện Q6, tỉnh Cà Mau) đứng tên đăng ký sở hữu. Kết quả xác minh tại địa phương được biết năm 2015 anh R5 cùng gia đình bán nhà và bỏ địa phương đi đâu không rõ, nên không mời làm việc được. Phạm Minh BC1 khai không rõ nguồn gốc xe do cách ngày bị bắt khoảng 02 ngày, BC1 cầm chiếc xe này của một người tên là Bình (không rõ lai lịch) với giá 15.000.000 đồng, đến ngày 03/4/2018, BC1 bị bắt và tạm giữ xe. Cơ quan điều tra đã gửi công văn đề nghị Cổng thông tin điện tử - Công an Tp. Hồ Chí Minh và Báo Công an Tp. Hồ Chí Minh đăng thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ để giải quyết.

Tại Bản cáo trạng số 200/CT-VKS-P1 ngày 16 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo:

Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Văn Công T, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 253/2019/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

1. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Phạm Minh BC1, tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Phạm Minh BC1 nộp phạt bổ sung số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Võ Thái Nhật BC2, tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2018. Buộc bị cáo Võ Thái Nhật BC2 nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước 3. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Đ Hoàng BC3, tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2018.

Buộc bị cáo Đ Hoàng BC3 nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Văn Công T, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/7/2019, bị cáo Phạm Minh BC1 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 22/7/2019, bị cáo Đ Hoàng BC3 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 23/7/2019, bị cáo Võ Thái Nhật BC2 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu nhưng vẫn giữ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Minh BC1, Luật sư Đ Ngọc O phát biểu ý kiến: Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo BC1 phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tuy nhiên, bị cáo BC1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do trong tổng khối lượng 3.839,5g ma tuý bị bắt, bị cáo BC1 chỉ mới bán được khoản 500g, số còn lại chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Như vậy, hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo BC1 đã được ngăn chặn kịp thời dẫn tới tác hại gây ra cho xã hội có phần hạn chế; ngoài ra, bị cáo BC1 có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ ly hôn khi bị cáo còn nhỏ. Hiện tại bị cáo có con nhỏ, gia đình bị cáo cũng có người có công cách mạng (em của ông ngoại bị cáo BC1). Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo BC1 xuống còn chung thân.

Người bào chữa cho bị cáo Võ Thái Nhật BC2, Luật sư Lê Thị Công D phát biểu ý kiến: Toà án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng, không oan sai. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo BC2 vì bị cáo có thời gian phục vụ trong quân ngũ, giữ chức vụ A trưởng nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống còn 20 năm tù. Người bào chữa cho bị cáo Đ Hoàng BC3, Luật sư Lương Văn T1 phát biểu ý kiến: Toà án cấp sơ thẩm xử bị cáo BC3 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, số lượng mua bán chất ma tuý của bị cáo BC3 như án sơ thẩm xử là không chính xác, do cách tính cộng đầu mua vào và bán ra như vậy là sẽ làm tăng khối lượng, làm bất lợi cho bị cáo nên phải trừ số lượng mà bị cáo BC3 đã bán ra. Ngoài ra, bị cáo BC3 đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện ra tội phạm là bị cáo BC2 trong vụ án nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t Điều 51 BLHS. Tại phiên toà phúc thẩm, gia đình bị cáo BC3 cũng đã nộp bổ sung số tiền 30.000.000đồng để sung quỹ như án sơ thẩm đã tuyên. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm mức hình phạt cho bị cáo BC3 còn 20 năm tù.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của minh như bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo mua bán ma túy nhiều lần có tình tiết tăng nặng, các bị cáo tiền án, tiền sự, nhân thân xấu. Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Bị cáo BC3 đã được gia đình khắc phục hậu quả nộp số tiền 30.000.000 đồng nhưng với tính chất mức độ hành vi phạm tội như phân tích trên, nên việc khắc phục này cũng không thể xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các bị cáo đều trình bày hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai nhận của các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:

Trong thời gian từ tháng 01 đến tháng 4 năm 2018, Phạm Minh BC1 đã nhiều lần mua ma túy của các đối tượng (không rõ lai lịch) đem về phân chia bán lại cho nhiều người, trong đó có Võ Thái Nhật BC2. Sau khi mua được ma túy của BC1, BC2 phân chia bán lại cho Đ Hoàng BC3. Ngoài mua ma túy của BC2, BC3 còn mua ma túy của R2 (không rõ lai lịch) rồi đem bán lại cho nhiều người trong đó có Văn Công T. T mua ma túy của BC3, rồi đem bán lại cho người khác và cất giấu để sử dụng thì bị bắt quả tang. Cụ thể:

+ Phạm Minh BC1 đã mua bán trái phép chất ma túy được xác định có tổng khối lượng là 3.839,5g các loại gồm MA, MDMA và Heroine [trong đó: 200g MA khai bán cho BC2 trước đó (phù hợp lời khai nhận của BC2); 356, 9264g MA và MDMA (của BC2 bị bắt quả tang); 3.282,5738g MA, Heroine, MDMA (bắt quả tang thu giữ của BC1)].

+ Võ Thái Nhật BC2 đã mua bán trái phép chất ma túy được xác định có tổng khối lượng là 556,9264g các loại gồm MA và MDMA (200g MA BC2 khai mua của BC1 trước đó + 356,9264g MA và MDMA bị bắt quả tang thu giữ của BC2 ).

+ Đ Hoàng BC3 đã mua bán trái phép chất ma túy được xác định có tổng khối lượng là 338,9336g loại MA và Heroine [gồm: 200g MA (BC3 khai đã mua của BC2 trước đó) + 41,41g MA và Heroine (BC3 đã bán cho T) + 97,5236g MA (bị bắt quả tang thu giữ của BC3).

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thực hiện với l i cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội nhưng do lười lao động, đồng thời để có tiền nhằm thoả mãn tiêu xài cá nhân mà các bị cáo đã cố tình lao vào con đường phạm tội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật. Việc tham gia mua bán ma túy cũng là một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến làm tăng tệ nạn nghiện ngập, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Đối với nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3.

[3.1] Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt các bị cáo, cụ thể: - Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 đã phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Riêng bị cáo Đ Hoàng BC3 còn phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

+ Trong vụ án này các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 đã mua bán trái phép các chất ma túy là loại Heroine, Methamphetamine, MDMA có khối lượng từ một trăm gam trở lên, đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn và đã tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo BC1 kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ, các tình tiết giảm nhẹ nào mới. Hội đồng xét xử phúc thẩm, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ như lời trình bày của luật sư bào chữa cho bị cáo BC1 nhưng xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của bị cáo BC1 nên cần phải loại trừ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội mới tránh được mối nguy hại sau này đồng thời cảnh báo đối với những kẻ có dự mưu tương tự.

[4.1] Đối với bị cáo BC2, bị cáo BC3, số lượng ma túy bị cáo mua bán bị bắt quả tang ít hơn so với bị cáo BC1, nhưng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng nên phải chịu hình phạt do hành vi đã thực hiện, cần cách ly bị cáo khỏi cộng đồng thời gian dài nhằm trừng trị, răn đe giáo dục và phòng ngừa chung thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4.2] Đối với bị cáo BC3, tại phiên toà phúc thẩm, cung cấp biên lai đã đóng số tiền khắc phục hậu quả là 30.000.000 đồng như Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như những tình tiết tăng nặng như phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm và nhân thân xấu nên việc khắc phục này cũng không phải là cơ sở để giảm án cho bị cáo BC3.

[5] Từ những phân tích trên, xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xem xét đến nhân thân của các bị cáo để xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nêu trên là thỏa đáng, không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không đưa ra được chứng cứ, tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 cũng như lời bào chữa của những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có cơ sở chấp nhận và đúng pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 phải chịu theo quy định về án phí lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 253/2019/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Phạm Minh BC1, Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Buộc bị cáo Phạm Minh BC1 nộp phạt bổ sung số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Võ Thái Nhật BC2, tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2018.

Buộc bị cáo Võ Thái Nhật BC2 nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước.

3. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Đ Hoàng BC3, tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/4/2018.

Buộc bị cáo Đ Hoàng BC3 nộp phạt bổ sung số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước. (Bị cáo BC3 đã nộp 30.000.000 đồng theo biên lai thu số 0045158 ngày 10/12/2019 của Cục thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh).

4. Tiếp tục giam các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3 để đảm bảo thi hành án.

5. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Phạm Minh BC1, Võ Thái Nhật BC2, Đ Hoàng BC3, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Phạm Minh BC1 được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước – Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 819/2019/HS-PT ngày 11/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:819/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về