Bản án 81/2021/DS-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 81/2021/DS-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 08 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 04/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐST-DS ngày 04/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2021/QĐST-DS ngày 17/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần KL; địa chỉ trụ sở: Số 40-42- 44 Phạm Hồng Thái, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Tuấn Anh, chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Hữu Đ, chức vụ:

Giám đốc ngân hàng TMCP KL – CN An Giang theo quyết định số 1395/QĐ- NHKL ngày 29/6/2020 của Tổng giám đốc ngân hàng KL.

Người đại diện theo uỷ quyền: bà Lê Phương Q, sinh năm 1982, chức vụ: Phó phòng khách hàng cá nhân.Địa chỉ: số 21, 22a2 Lý Thái Tổ, phường Mỹ Long, Tp.Long Xuyên, tỉnh An Giang. SĐT: 0919.725.955 có mặt

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1973; bà Lê Thị N, sinh năm 1974;

nơi cư trú: tổ 7, ấp BC, xã BL, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 10 năm 2020 và lời khai của nguyên đơn Ngân hàng TMCP KL trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:

Ông C và bà N có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A725526-725528/HĐTD-CC ngày 30/01/2019 để vay số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng), thời hạn vay 270 ngày (30/01/2019 – 27/10/2019), lãi suất 16%/năm. Tài sản cầm cố bảo đảm nợ vay là xe 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Mangostin, biển kiểm soát: 67M5 – 4312 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 002001 do Công an tỉnh An Giang cấp ngày 02/5/2007 đứng tên ông Nguyễn Văn C. Ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy xe, xe vẫn do ông Đức, bà Thuý quản lý sử dụng.

Trong quá trình vay vốn, ông C, bà N chỉ thanh toán cho ngân hàng số tiền 1.760.375 đồng, tiền vốn: 1.574.074 đồng, lãi trong hạn đã trả: 186.301đồng. Khi đến hạn thanh toán dù ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở, ông C, bà N chỉ cam kết nhưng vẫn không thực hiện.

Ngân hàng yêu cầu ông C và bà N cùng có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền: 31.759.137 đồng, trong đó tiền gốc: 23.425.926 đồng, tiền lãi: 2.772.603 đồng và quá hạn: 5.560.609 đồng. Đồng thời yêu cầu trả lãi phát sinh tính từ ngày 22/10/2020 trên dư nợ gốc cho đến khi thanh toán dứt nợ.

Tiếp tục duy trì hợp đồng cầm cố và trường hợp ông C, bà N không trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị N đã được Tòa án tống đạt các thủ tục tố tụng đúng theo quy định pháp luật nhưng ông bà không gửi văn bản tự khai và không tham gia tố tụng nên không ghi nhận được ý kiến của ông bà.

Tại phiên toà:

Nguyên đơn trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu ông C, bà N cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng số tiền 34.346.900 đồng (ba mươi bốn triệu, ba trăm bốn mươi sáu ngàn, chín trăm đồng), trong đó vốn vay là:

23.425.926 đồng, lãi trong hạn: 2.772.603 đồng, lãi quá hạn: 8.148.371 đồng. Và ông C, bà N phải chịu tiền lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ. Nếu ông bà không thực hiện việc trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng TMCP KL khởi kiện về tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với ông Nguyễn Văn C và bà Lê Thị N cư trú tại huyện Châu Phú nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo qui định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thủ tục tố tụng: Ông C và bà N dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông C và bà N là phù hợp với qui định pháp luật tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hợp đồng tín dụng: Ngân hàng yêu cầu ông C và bà N cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng tổng số tiền là số tiền 34.346.900 đồng (ba mươi bốn triệu, ba trăm bốn mươi sáu ngàn, chín trăm đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 08/4/2021 trên dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hợp đồng tín dụng.

[2.2] Ông C, bà N tuy đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông bà không đến tham gia hoà giải, xét xử cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến xem như ông bà tự từ bỏ quyền lợi của bản thân.

[2.3] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp như hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A725526-725528/HĐTD-CC ngày 30/01/2019, giấy đề nghị vay vốn trả góp ngày 30/01/2019, cam kết trả nợ ngày 24/6/2020 đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa ông C, bà N và ngân hàng TMCP KL – chi nhánh An Giang có xác lập hợp đồng tín dụng để vay số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng), theo đó bà Lê Thị N là người vay, ông Nguyễn Văn C là người liên đới chịu trách nhiệm và ông C, bà N có mối quan hệ vợ chồng. Việc giao dịch này hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với qui định pháp luật nay ông C bà N vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo điều 2 của hợp đồng tín dụng. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông C, bà N cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP KL số tiền 34.346.900 đồng (ba mươi bốn triệu, ba trăm bốn mươi sáu ngàn, chín trăm đồng), trong đó vốn vay là: 23.425.926 đồng (hai mươi ba triệu, bốn trăm hai mươi lăm ngàn, chín trăm hai mươi sáu đồng), lãi trong hạn: 2.772.603 đồng (hai triệu, bảy trăm bảy mươi hai ngàn, sáu trăm lẻ ba đồng, lãi quá hạn: 8.148.371 đồng (tám triệu, một trăm bốn mươi tám ngàn, ba trăm bảy mươi mốt đồng).

[2.4] Đồng thời, ông C và bà N cùng có nghĩa vụ liên đới trong việc tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo Điều 2 của hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố nêu trên tính từ ngày 08/4/2021 cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hợp đồng tín dụng trên.

[2.5] Về hợp đồng cầm cố: Tài sản cầm cố bảo đảm nợ vay là xe 02 bánh Honda-Mangostin; biển kiểm soát: 67M5 – 4312 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 002001 do Công an huyện Châu Phú cấp ngày 02/5/2007 đứng tên Nguyễn Văn C. Xét thấy, việc cầm cố được lập thành văn bản theo Điều 3 của hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A725526-725528/HĐTD-CC ngày 30/01/2019 và theo quy định tại điều 310 Bộ luật dân sự 2015, hợp đồng cầm cố phát sinh hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hội đồng xét xử xét thấy, việc cầm cố trên phù hợp với quy định của pháp luật và nay yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với hợp đồng tín dụng được chấp nhận. Do đó, việc tiếp tục duy trì việc cầm cố theo hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố trên là phù hợp để đảm bảo cho việc thi hành án.

Trong trường hợp ông C, bà N không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử lý tài sản bảo đảm đối với hợp đồng cầm cố để thu hồi nợ.

[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của ngân hàng được chấp nhận nên ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả tạm ứng án phí đã nộp cho ngân hàng. Ông C, bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 147, điều 227, điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, điều 309,điều 310, điều 311 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2 Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP KL.

Buộc ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị N cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng TMCP KL số tiền: 34.346.900 đồng (ba mươi bốn triệu, ba trăm bốn mươi sáu ngàn, chín trăm đồng), trong đó vốn vay là: 23.425.926 đồng (hai mươi ba triệu, bốn trăm hai mươi lăm ngàn, chín trăm hai mươi sáu đồng), lãi trong hạn: 2.772.603 đồng (hai triệu, bảy trăm bảy mươi hai ngàn, sáu trăm lẻ ba đồng), lãi quá hạn: 8.148.371 đồng (tám triệu, một trăm bốn mươi tám ngàn, ba trăm bảy mươi mốt đồng).

Ông Nguyễn Văn C, bà Lê Thị N cùng có nghĩa vụ liên đới tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo Điều 2 của hai hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A725526-725528/HĐTD-CC ngày 30/01/2019 tính từ ngày 08/4/2021 cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hợp đồng tín dụng.

Nếu ông C, bà N không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố A725526-725528/HĐTD-CC ngày 30/01/2019 để thu hồi nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông C và bà N cùng phải chịu 1.717.000 đồng (một triệu, bảy trăm mười bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP KL số tiền 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008587 ngày 08/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Ngân hàng TMCP KL được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông C và bà N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2021/DS-ST ngày 08/04/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:81/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về