Bản án 81/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/5/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 76/2020/HSST ngày 10 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2020, thông báo về việc thay đổi ngày xét xử số 38/2020/TB-TA ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Anh T, sinh năm 1990.

HKTT: Khu Yên Mẫn, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Anh N, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962; Vợ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1992; con: 02 con lớn sinh năm 2010 nhỏ sinh năm 2012.

Tiền án: 01 Bản án số 04/2017/HSST ngày 14/11/2017 của Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/9/2018.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 70/2015/HSST ngày 26/01/2015 của Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2015.

- Bản án số 214/2016/HSST ngày 07/9/2016 của Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 16 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2017. Đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ, ngày 16/12/2019, Đỗ Kiên C sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong có lắp sim số điện thoại 0326.646.752 gọi vào số điện thoại 0825.146.836 của Trần Anh T để nhờ T mua cho C “04 nước 01 ngô”. T hiểu là C muốn mua 04 ma tuý “đá” với giá 400.000 đồng và 01 ma tuý “ngựa” với giá 100.000 đồng. Sau đó, T đi bộ đến khu Niềm Xá, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh để mua 500.000 đồng ma tuý của một người thanh niên không quen biết được 01 viên nén màu hồng được bọc trong giấy bạc, 01 ống hút màu hồng bên trong có túi nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng. T nhận và cầm số ma tuý này rồi đi xe taxi đến phòng 301 nhà nghỉ Thanh Lâm ở khu H, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Tại đây, T gặp C và bán cho C số ma tuý trên với giá 500.000 đồng. C nhận ma tuý rồi đưa cho T 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, số tiền 300.000 đồng còn thiếu C gọi điện thoại cho bạn mang đến nhà nghỉ Thanh Lâm để trả cho T. Trong lúc chờ bạn của C mang tiền đến thì C đã sử dụng hết ma tuý “ngựa” 01 viên nén màu hồng bọc trong giấy bạc. Một lúc sau có Lê Văn K, sinh năm 1995; HKTT: xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình là bạn của C đến phòng 301 nhà nghỉ Thanh Lâm, K đưa cho C số tiền 300.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. C cầm số tiền này rồi trả nốt cho T. T nhận tiền rồi cất tất cả số tiền 500.000 đồng C trả vào trong ví màu đen rồi đút vào túi quần sau bên phải T đang mặc. Ngay sau đó, lực lượng Công an phường V xuất hiện kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ vật chứng:

* Vật chứng thu giữ của Đỗ Kiên C:

- 01 ống hút màu hồng bên trong 01 túi nilon màu trắng (ký hiệu: M1);

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có lắp sim số 0326.646.752 đã qua sử dụng.

* Vật chứng thu giữ của Trần Anh T:

- Số tiền 500.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng (ký hiệu: M2).

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 208 màu đỏ đen bên trong có lắp sim số 0825.146.836 đã qua sử dụng.

Ngày 17/12/2019, Cơ quan Cơ quan CSĐT Công an thành phố B đã tiến hành khám xét nơi ở của Ttại khu Yên Mẫn, phường K, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh nhưng không phát hiện, thu giữ gì. Tại bản kết luận giám định số 26/KLGĐMT-PC09 ngày 18/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

- Các hạt tinh thể màu trắng trong túi nilon màu trắng trong bì thư niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0303 gam; Là ma tuý; Loại ma tuý: Methamphetamine.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 60/CTr-VKSTPBN ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố Trần Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà, bị cáo Trần Anh T khai nhận đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên Cáo trạng truy tố Trần Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1, Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Anh T từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có lắp sim số 0326.646.752; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 208 màu đỏ đen bên trong có lắp sim số 0825.146.836.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo nhất trí với phần luận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng: Đã thực hiện theo quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với không gian, phù hợp với thời gian, địa điểm, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ, ngày 16/12/2019, tại phòng 301 nhà nghỉ Thanh Lâm ở khu H, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh Trần Anh T có hành vi bán trái phép 0,0303 gam ma tuý loại Methamphetamin cho Đỗ Kiên C với giá 500.000 đồng. Cáo trạng truy tố số 60/CT-VKSNDTPBN ngày 08/4/2020 đã truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 251 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý huỷ hoại sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo còn xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội.

[4] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, nhân thân của bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 14/11/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 15 tháng tù giam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo bản án số 04/HSST ngày 14/11/2017. Bị cáo vẫn chưa được xoá án tích nhưng lại phạm tội do cố ý, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Anh T thành khẩn khai báo ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo HĐXX xét thấy để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình nhằm thực hiện chính sách khoản hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [7] Về tang vật chứng: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền bị cáo có được do hành vi thực hiện tội phạm và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có lắp sim số 0326.646.752; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 208 màu đỏ đen bên trong có lắp sim số 0825.146.836 là phương tiện bị cáo và Cường dùng để liên lạc trao đổi mua bán ma tuý nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Đối với người đàn ông đã bán ma tuý cho T nhưng T không biết tên, tuổi cụ thể. Do vậy cơ quan điều tra Công an thành phố B chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Đỗ Kiên C đã mua số ma tuý do Tú bán nhưng khối lượng chất ma tuý chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã tiến hành điều tra xác minh C không có tiền án, tiền sự và C hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra Công an thành phố B chưa làm rõ được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Lê Văn K là người mang tiền đến đưa cho C, do K không biết mục đích C vay tiền để mua ma tuý của T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xem xét xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử phạt bị cáo Trần Anh T 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 16/12/2019.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 26/KLGĐMT- PC09 ngày 18/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen bên trong có lắp sim số 0326.646.752; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 208 màu đỏ đen bên trong có lắp sim số 0825.146.836

- Về án phí: Bị cáo Trần Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về