Bản án 81/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 138/2020/HSST ngày 16 tháng 03 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1691/2020/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Thái Tr T, Giới Thái Tr Th: Nam, sinh ngày 15/10/1988, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở: Số 102/2 ấp T, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Thái Văn Dần (đã chết) và bà Phan Thị N(sinh năm 1952):

Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 02/01/2018, bị Tòa án nhân dân Quận A Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 13/2018/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy. Đến ngày 23/6/2019, chấp hành xong theo Giấy chứng nhận số 1500/CN-CSĐH ngày 08/6/2019.

Tiền án: Không. Nhân thân:

+ Ngày 31/3/2008 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 241/2008/HS-ST. Đến ngày 17/01/2009 chấp hành xong hình phạt tù và nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 22/8/2008.

+ Ngày 18/9/2009, bị Tòa án nhân dân Quận A xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 189/2009/HSST. Đến ngày 16/8/2011 thì chấp hành xong án phạt tù và nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 22/3/2017.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/10/2019. Có mặt.

Bị hại: Bà Kim J B, sinh năm 1991, Quốc tịch Hàn Quốc, Hộ chiếu số M08271856, Chỗ ở: 47 Nguyễn Thái Bình, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Thái Thị Th(sinh năm 1987).

Chỗ ở: 102/2 ấp T, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ vào ngày 19/10/2019, Thái Tr T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vario 150, màu xanh đen, biển số 50Yx-499.xx chạy dịch vụ GoViet. Sau khi chở khách về Quận A, Thái Tr T chạy xe quanh khu vực đường Nguyễn Thái Bình, Phường N, Quận A để tìm khách. Đến khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày, Thái Tr T nhìn thấy chị Kim J B (quốc tịch Hàn Quốc) đang ngồi trên xe mô tô (không rõ biển số) của một người đàn ông (không rõ lai lịch) chạy Grabbike tại trước số 45-47 Nguyễn Thái Bình, phường N, Quận A. Trên tay chị Kim J B đang sử dụng điện thoại hiệu IphoneX, 64Gb, màu trắng nên Thái Tr T nảy sinh ý định cướp giật. Thái Tr T liền điều khiển xe mô tô chạy từ phía sau, áp sát phía bên phải chị Kim J B, dùng tay trái giật chiếc điện thoại của chị Kim J B rồi tăng ga bỏ chạy về hường đường Phó Đức Chính, Quận A. Lúc này, anh Nguyễn H và anh Nguyễn Văn Q (trinh sát Đội Cảnh sát Hình sự Công an Quận A) đang làm nhiệm vụ phát hiện sự việc đã truy đuổi theo Thái Tr T, khi đến giao lộ đường Nguyễn Thái Bình – Phó Đức Chính, anh Nguyễn H và anh Nguyễn Văn Q bắt giữ Thái Tr T sau đó bàn giao Thái Tr T cùng tang vật cho Công an phường N, Quận A lập hồ sơ phạm tội quả tang.

Tại Kết luận định giá tài sản số 6862/KL-HĐĐGTS ngày 07/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng, số Imei 3594030845, đã qua sử dụng trị giá 12.809.000 đồng.

Về vật chứng thu được:

- 01 Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng, số Imei 3594030845, bộ nhớ trong 64GB đã qua sử dụng đã được Cơ quan điều tra trả lại cho bị hại.

- Thu giữ của Thái Tr T: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu vàng, Imei 1: 358465090559090, Imei 2: 358466090559098 đã qua sử dụng, chưa kiểm tra tình trạng bên trong.

- 01 Xe hai bánh gắn máy màu xanh – đen, nhãn hiệu: Honda, Loại xe: 02 bánh, số loại: Vario 150, BS: 50Yx-499.xx, SK: MH1KF4117KK674XXX, SM: KF41E1676XXX.

Về dân sự: Chị Kim J B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại Cáo trạng số 104/CT-VKS-P2 ngày 09/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Thái Tr T về tội “Cướp giật tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm d Khoản 2 Điều 171, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Thái Tr T từ 04 (bốn) năm đến 05 (năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo Thái Tr T tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản ghi lời khai của bị cáo, người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 13 giờ 20 phút ngày 19/10/2019, tại trước địa chỉ 45-47 Nguyễn Thái Bình, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo Thái Tr T có hành vi dùng xe mô tô biển số 50Yx-499.xx cướp giật chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X, màu trắng của chị Kim J B trị giá 12.809.000 đồng thì bị bắt quả tang. Xét hành vi cướp giật tài sản do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản cá nhân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Thái Tr T sử dụng xe mô tô để thực hiện hành vi cướp giật điện thoại gây nguy hiểm cho người khác nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản” thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét Thái Tr Th chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, giáo dục người khác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cũng xem xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa; bị cáo phạm tội nhưng tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi giao trả bị hại đầy đủ, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Khi quyết định hình phạt, cần áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định khung hình phạt áp dụng và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khi quyết định hình phạt có hình phạt tương xứng với Thái Tr Th chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2] Xét cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo Thái Tr T về khung, điều luật và tội danh như đã viện dẫn trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét phần luận tội của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ và lời khai của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện hợp pháp.

[4] Trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc xe mô tô màu xanh – đen, nhãn hiệu: Honda thu giữ của bị cáo Thái Tr T. Qua xác minh xe mô tô trên đứng tên chủ sở hữu của bà Thái Thị Thlà chị ruột của bị cáo. Bà Thái Thị Th khai vào ngày 19/10/2019, Thái Tr T mượn xe của bà Thảo để chạy dịch vụ GoViet. Trong quá trình chạy xe, Thái Tr T đã sử dụng xe để thực hiện hành vi cướp giật tài sản nên bà Thảo không biết. Bị cáo Thái Tr T cũng khai nhận do không có xe nên đã mượn xe của chị Thảo để chạy xe ôm. Do đó, có căn cứ trả lại xe cho bà Thái Thị Th.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu vàng thu giữ của bị cáo Thái Tr T không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 47, điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Căn cứ vào Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

 Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Thái Tr T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Thái Tr T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù Thái Tr Th từ ngày 19/10/2019.

2. Về vật chứng vụ án:

- Trả lại cho bà Thái Thị Th 01 Xe hai bánh gắn máy màu xanh – đen, nhãn hiệu: Honda, Loại xe: 02 bánh, số loại: Vario 150, BS: 50Yx-499.xx, SK: MH1KF4117KK674XXX, SM: KF41E1676XXX.

- Trả lại cho bị cáo Thái Tr T 01 điện thoại di động hiệu Samsung J6, màu vàng, Imei 1: 358465090559090, Imei 2: 358466090559098 đã qua sử dụng, chưa kiểm tra tình trạng bên trong.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 182/20 ngày 09/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh) 3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 05/05/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về