Bản án 81/2019/HSST ngày 28/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 81/2019/HSST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28/6/2019 Tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 89/2019/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2019/QĐXXST- HS ngày 14/6/2019 đối với bị cáo:

1. Họ tên: Cứ A C Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1977, tại Điện Biên.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản L 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: H'Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng.Trình độ học vấn: Không biết chữ Con ông: Cứ A C, sinh nă, 1953. Con bà: Vàng Thị L, sinh năm 1958. Bị cáo có vợ Giàng Thị P, sinh năm 1982. Bị cáo có 3 con, con lớn nhất sinh năm 2001 con nhỏ nhất sinh năm 2005. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/3/2019. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Người có nghĩa vụ liên quan: Lò Văn Đ sinh năm 1988. Trú tại: Bản C 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Cầm Văn P, sinh năm 1969. Trú tại bản P 3, xã M (đều vắng mặt).

3. Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Tiến Ngọ - Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ ngày 01/3/2019, Cứ A C từ nhà ở bản L 2, xã M, huyện Đ đến khu vực giữa bản L2, xã M gặp và mua được 01 gói heroine của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 37 tuổi không biết tên và địa chỉ với giá 150.000đ, mục đích mang về sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Sau khi mua được, C mang về nhà lấy một ít heroine vừa mua được ra sử dụng bằng hình thức hít. Sử dụng xong, C chia heroine ra thành 05 gói nhỏ, 04 gói được gói bằng nilon màu trắng C cất giấu ở trong túi áo khoác bên phải đang mặc, còn 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh giấy màu trắng C cất giấu ở dưới đệm giường ngủ của mình đến khoảng 10 giờ cùng ngày, khi C đang ngồi ở bàn uống nước trong nhà thì có Lò Văn Đ, sinh năm 1988 trú tại bản C 2, xã M, huyện Đ đến nhà hỏi mua 50. 000đ heroine để sử dụng và đưa cho C 01 tờ tiền mệnh giá 50.000đ. C nhận tiền rồi đưa cho Đ 01 gói heroine. Đ cầm gói heroine đi ra khỏi nhà C sử dụng hết bằng hình thức hít rồi quay lại nhà C ngồi uống nước, nói chuyện với C. Khoảng 10 giờ 20 phút cùng ngày, khi C và Đ đang ngồi nói chuyện ở bàn uống nước trong nhà C thì có Cầm Văn P, sinh năm 1969 trú tại bản P 3, xã M, huyện Đ đến nhà C hỏi mua 50.000đồng heroine C lấy 01 gói heroine trong túi áo khoác bên phải đang mặc ra bán cho P. Lúc C bán ma túy cho P thì Đ cũng ngồi ở bàn uống nước và biết việc mua bán. Sau khi mua được heroine P cầm gói heroin ra khỏi nhà c sử dụng hết bằng hình thức hít, rồi quay lại nhà C ngồi uống nước nói chuyện với C, Đ. Hồi 11 giờ cùng ngày khi C, Đ, P đang ngồi ở bàn uống nước trong nhà C thì bị tổ công tác Công an huyện Điện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi áo khoác bên phải C đang mặc 02 gói heroine cùng 100.000đ.

Hi 13 giờ ngày 01/3/2019 khám xét khẩn cấp nơi ở của C phát hiện thu giữ ở dưới đệm ngủ của Chống 01 gói heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 01/03/2019 đã xác định: Toàn bộ số cục bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang của bị cáo có khối lượng là 0,25 gam, ký hiệu M1, trích 0,08 gam gửi giám định.

Số cục bột màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của C có khối lượng là 0,05 gam gửi toàn bộ giám định ký hiệu M2.

Tại bản kết luận giám định số 321/GĐ-PC09 ngày 11/3/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 02 mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M1,M2 trích ra từ vật chứng thu giữ của Cứ A C gửi giám định là ma túy loại heroine, không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định.

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKSĐB ngày 30/5/2019; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Cứ A C về tội: " Mua bán trái phép chất ma túy theo Điểm b Khoản 2 Điều 251/BLHS.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: " Mua bán trái phép chất ma tuý, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251/BLHS 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Cứ A Chống từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về xử lý vật chứng của vụ án;

Áp dụng Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí đối với bị cáo.

Tại bản luận cứ bào chữa: Người bào chữa cho bị cáo nhất trí quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, quyết định xét xử của Tòa án đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai. Bị cáo thành khẩn khai báo, nên đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/ BLHS cho bị cáo ở mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Bị cáo thuộc diện hộ nghèo đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí HSST cho bị cáo; Bị cáo hoàn toàn nhất trí bản luận cứ bào chữa của Người bào chữa không có ý kiến bổ sung vào bản luận cứ.

Tại phiên tòa bị cáo Cứ A C một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Khong 9 giờ ngày 01/3/2019 Cứ A C từ nhà đến giữa bản L 2, xã M. mua 01 gói heroine của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 37 tuổi không biết tên và địa chỉ với giá 150.000đ đem về nhà sử dụng một ít rồi chia số heroine ra thành 5 gói nhỏ cất giấu trên người và dưới đệm giường ngủ của mình mục đích để bán lẻ kiếm lời. Đến khoảng 10 giờ và 10 giờ 20 phút cùng ngày C đã bán cho Lò Văn Đ và Cầm Văn P mỗi người 01 gói heroine với giá mỗi gói 50.000đ. Hồi 11 giờ cùng ngày khi Chống, Đ, P đang ngồi ở bàn uống nước trong nhà C thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi áo khoác bên phải C đang mặc 02 gói heroine cùng 100.000đ. Hồi 13 giờ ngày 01/3/2019 khám xét khẩn cấp nơi ở của C phát hiện thu giữ ở dưới đệm ngủ của C 01 gói heroine.

Tng khối lượng 03 gói heroine thu giữ khi cân là 0,3 gam. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo bán ma túy cho 02 người là Đ và P do vậy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc tình tiết định khung tăng nặng tại điểm b khoản 2 Điều 251/BLHS " phạm tội 02 lần trở lên". Có khung hình phạt từ 7 đến 15 năm tù.

Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được ghi tại biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản khám xét, lời khai những người có nghĩa vụ liên quan....

Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt mà pháp luật quy định do hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa bàn xã M nói riêng và huyện Đ nói chung. Hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma tuý và tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma tuý hoạt động, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong xã hội. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo cho thấy. Sinh ra và lớn lên tại Đ, không được đi học mà ở nhà làm ruộng. Năm 2000, xây dựng gia đình với Giàng Thị P. Bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2000, Bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS. HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy lại bán ma túy cho nhiều người nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện để bị cáo cải sửa lỗi lầm của mình trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 251/BLHS. Nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn lại là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xét đề nghị của đại diện VKS là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.

Ngun gốc số Heroine trên theo lời khai của bị cáo đã mua của một người phụ nữ dân tộc H'Mông không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ được do vậy HĐXX không xem xét trong vụ án.

Đi với Lò Văn Đ, Cầm Văn P là người nghiện ma túy sau khi mua mua được heroine của bị cáo đã sử dụng hết. Xét hành vi của Đ và P không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu huỷ 0,3 gam heroine đã trích 0,13 gam gửi giám định không hoàn lại. Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 100.000đ do bị cáo phạm tội mà có.

[7]. Về án phí: Bị cáo có hộ khẩu thường trú tại xã đặc biệt khó khăn thuộc diện miễn án phí. Áp dụng Điểm đ Khoản 1 Điều 12 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Cứ A C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Cứ A C 07 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (01/3/2019).

3. n cứ: Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

Tch thu để tiêu huỷ: 0,3 gam heroine, đã trích 0,13 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 0,17 gam. Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 100.000đ do bị cáo phạm tội mà có. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 03/6/2019).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 bị cáo Cứ A C được miễn toàn bộ án phí HSST.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm( ngày 28/6/2019)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2019/HSST ngày 28/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về