TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 81/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/12/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 06/12/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 213/2019/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 8 năm 2019, về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn’, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 31/10/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2019/QĐST/HNGĐ ngày 19/11/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Siếu K, sinh năm 1991 (có mặt).
Địa chỉ: ấp B, xã H, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng.
2. Bị đơn: Anh Lý L, sinh năm 1989 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp S, xã H, C, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/8/2019 cũng như quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Siếu K trình bày: Vào năm 2010 chị K và anh Lý L có tổ chức lễ cưới, đến năm 2012 mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã C và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 325, quyển số 02/2012, ngày 28/8/2012. Sau cưới chị K về làm dâu bên nhà chồng tại số nhà 494, khu An Lạc, ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, chung sống rất hạnh phúc, nhưng đến năm 2014 thì cuộc sống không còn hạnh phúc nữa do tính tình vợ chồng không còn hợp nhau, nên thường hay cải vã với nhau và hai người đã ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Trong thời gian chung sống với nhau chị K và anh L có 01 người con chung tên Lý D, sinh ngày 07/11/2011 (Nam) hiện cháu D đang sống cùng chị K. Về tài sản chung tự thỏa thuận với nhau. Về nợ chung không có. Nay chị K nhận thấy tình cảm vợ chồng rạn nứt, không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được không thể tồn tại do đó yêu cầu Tòa giải quyết cho chị K được ly hôn với anh L. Về con chung chị K yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh L, nhưng anh L không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị K, đồng thời anh L cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự , đề nghị Tòa án chấp nhận cho chị K được ly hôn với anh L, giao cho chị K nuôi dưỡng cháu Lý D, ghi nhận sự tự nguyện của chị K không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung các đương sự tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa giải quyết nên không đặt ra xem xét, về nợ chung không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho anh L, nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt anh L.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của chị Trần Siếu K, nhận thấy chị K và anh L tự nguyện chung sống với nhau năm 2010, có tổ chức lễ cưới, đến năm 2012 có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 325, quyển số 02/2012, ngày 28/8/2012. Quan hệ hôn nhân của chị K và anh L không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do tính tình vợ chồng không còn hòa hợp với nhau thường hay xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau. Chị K nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với anh L nên có nguyện vọng ly hôn. Chị K và anh L đã không còn chung sống với nhau từ năm 2015 đến nay. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên chị K suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh L, nhưng chị K vẫn cương quyết ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị K được ly hôn với anh L.
[3] Về con chung: Thời gian chung sống với nhau chị K và anh L có 01 người con chung tên Lý D, sinh ngày 07/11/2011 (Nam) hiện đang do chị K nuôi dưỡng. Chị K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung và cũng theo nguyện vọng của cháu Lý D, nếu cha mẹ không còn sống chung với nhau thì cháu có nguyện vọng sống với mẹ. Để đảm bảo cuộc sống của cháu D không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của chị K. Tại phiên Tòa, chị K không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, chị K hiện có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con nên việc chị K không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của chị K không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung: Chị K trình bày để tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về nợ chung: Chị K trình bày nợ chung không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Án phí sơ thẩm: Chị K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Siếu K.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Siếu K được ly hôn với anh Lý L.
- Về con chung: Giao con chung Lý D, sinh ngày 07/11/2011 (Nam) cho chị Trần Siếu K trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu D đủ 18 tuổi.
Anh Lý L không phải cấp dưỡng nuôi con, anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Anh L không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lý D của chị Trần Siếu K thì chị K có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.
- Về tài sản chung: Chị K trình bày để tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Về nợ chung: Chị K trình bày nợ chung không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
2/ Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Siếu K phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị K đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0000517, ngày 20/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị K đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Anh Lý L không phải chịu án phí sơ thẩm.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án 81/2019/HNGĐ-ST ngày 06/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 81/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về