Bản án 81/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở a án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 79/2018/TLST- HS ngày 01 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/QĐXXST-HS ngày 17  tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Vi Tiến A, sinh ngày 07 tháng 10 năm 1985, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú: Khu G, thị trấn M, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Vi Văn H và bà Trần Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa có tiền án tiền sự; bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Chi Lăng từ ngày 18 tháng 7 năm 2018, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Vi Văn H, sinh năm 1961, nơi thường trú: Khu G, thị trấn M, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

-  Người làm chứng:

Ông Lương Văn I, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ ngày 18 tháng 7 năm 2018 tại thôn Y, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Công an huyện Chi Lăng phát hiện, bắt quả tang Vi Tiến A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra, thu giữ: 01 (một) gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng, trong túi quần bên trái A đang mặc và số tiền 950.000đ (chín trăm năm mươi nghìn đồng). Hồi 12 giờ 15 phút cùng ngày Công an huyện Chi Lăng tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà Vi Tiến A ở khu G, thị trấn M, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, thu giữ: 03(ba) gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng, tại túi áo khoác treo trong tủ cạnh giường ngủ của A. Tại bản Kết luận giám định số 279/KL-PC54 ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Vi Tiến A, niêm phong tại phong bì số 01 là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,056 gam; chất bột màu trắng thu giữ của Vi Tiến A, niêm phong tại phong bì số 03 là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,148 gam; tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,204 gam. Tại cơ quan điều tra, Vi Tiến A đã thành khẩn khai nhâ n toàn bô hành vi phạm tô i: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 17 tháng 7 năm 2018, Vi Tiến A hỏi mượn xe mô tô nhãn hiê u Honda Blade, biển kiểm soát 12X1 – 148.75 của bố đẻ Vi Văn H, nói là đi chơi với bạn. Sau đó, A điều khiển xe đi lên thành phố L mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khoảng 21 giờ cùng ngày A đến khu vực nhà máy xi măng thuô c thành phố L gă p mô t người đàn ông lái xe ôm (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), trước đó vào khoảng tháng 02/2018 Q đã được nhờ người đàn ông này mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền ma túy Heroine và đã sử dụng hết. A đưa cho người đàn ông này 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) và nói “Anh đi lấy cho em 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng)”, ý là nhờ người đàn ông đi lấy cho 400.000 đồng tiền ma túy Heroine, trong đó vừa là tiền mua ma túy vừa là tiền công. Người đàn ông này cầm tiền và đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho A 01 (mô t) gói giấy màu trắng bên trong có 04 (bốn) gói giấy nhỏ màu vàng chứa chất ma túy Heroine, sau đó người đàn ông đi đâu không rõ, còn A cầm gói ma túy vừa mua được quay về nhà. Đến khoảng 11 giờ ngày 18 tháng 7 năm 2018 A cầm 01 (mô t) gói giấy nhỏ màu vàng chứa chất ma túy Heroine đi vào khu vực Đình G thuô c thôn Y, xã Q, huyê n C mục đích sử dụng, trên đường đi thì bị Công an huyê n Chi Lăng bắt quả tang.

Đối với người đàn ông lái xe ôm đã mua hộ ma túy cho A tại khu vực nhà máy xi măng, thành phố L do không biết tên, tuổi và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng không thể điều tra xác minh.

Bản cáo trạng số 81/CT-VKSCL ngày 01 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Vi Tiến A về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng quy định của pháp luật. Kết thúc phần hỏi, Kiểm sát viên trình bày ý kiến luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Vi Tiến A theo tội danh và điều luật như viện dẫn trong bản cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Vi Tiến A từ 01(một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì thư số 01, bên trong có 0,034 gam ma túy Heroine; 01 phong bì thư số 03, bên trong có 0,113 gam ma túy Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo số tiền 950.000đ (chín trăm năm mươi nghìn đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Trong phần tranh luận: Bị cáo Vi Tiến A không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Vi Tiến A tại Cơ quan điều tra phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 18 tháng 7 năm 2018 và bản kết luận giám định chất ma túy ngày 19 tháng 7 năm 2018, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Vi Tiến A đã thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng 0,056 gam bị bắt quả tang tại khu vực đình G, thuộc thôn Y, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn và thu giữ tại nhà bị cáo một gói ma túy có khối lượng 0,148 chất ma túy Heroine; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,204 gam.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy đối với con người và những ảnh hưởng tiêu cực của ma túy đối với mọi mặt của đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần xét xử nghiêm minh nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Để xử phạt bị cáo một mức án tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, ngoài việc xem xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nêu trên thì còn xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân nên đã sớm nghiện hút ma túy, do đó xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Vi Văn H được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng 3, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[8] Từ những phân tích, nhận định nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo biết tôn trọng pháp luật, sống có ích cho xã hội sau này.

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập, không có tài sản. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vi Tiến A theo tội danh và điều khoản trong Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Mức hình phạt của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị đối với bị cáo Vi Tiến A là hợp lý cần được chấp nhận.

[11] Đối với người đàn ông lái xe ôm đã mua hộ ma túy cho bị cáo tại thành phố L do bị cáo không biết tên, tuổi và địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng không thể điều tra xác minh.

[12]  Đối với ông Vi Văn H, chủ sở hữu chiếc xe mô tô nhã hiệu Honda Blade, biển kiểm soát 12X1-148.75, ngày 17 tháng 7 năm 2018 cho Vi Tiến A mượn, nhưng không biết việc A sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, do đó không xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông Vi Văn H là có căn cứ.

[13]  Vật chứng vụ án: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật mà Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[14] Đối với số tiền 950.000đ (chín trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Hình sự.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Vi Tiến A phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vi Tiến A 01(một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam ngày 18 tháng 7 năm 2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy: 01(một) phong bì thư số 01, bên trong có 0,034 gam ma túy Heroine; 01(một) phong bì thư số 03, bên trong có 0,113 gam ma túy Heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Cả hai phong bì trên đã được niêm phong dán kín, có chữ ký của các thành phần tham gia.

Trả lại cho bị cáo số tiền 950.000đ (chín trăm năm mươi nghìn đồng). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 10 năm 2018 và Ủy nhiệm chi ngày 03 tháng 10 năm 2018, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng  với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.

Án phí:

Bị cáo Vi Tiến A phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về