Bản án 81/2018/HSST ngày 27/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 81/2018/HSST NGÀY 27/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 75/2018/HSST ngày 07 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2018/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Thị L (Tên gọi khác Bùi Thị H) - Sinh năm 1981. Tại xã L, huyện T, tỉnh Hòa Bình.

Nơi ĐKHKTT: Bản H, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La.

Tạm trú: Tiểu khu Nh, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Văn X và con bà: Bùi Thị C (Đều đã chết); Bị cáo có chồng là Bàn Văn N, sinh năm 1978 hiện đang chấp hành án phạt tù; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2014;Tiền án, Tiền sự: Không; Về nhân thân: Ngày 17/8/2011 bị TAND thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xử phạt 12 tháng tù giam về tội: Không tố giác tội phạm (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 08/12/2017 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Khoảng 08h 30 phút, ngày 08/12/2017 Bùi Thị L thuê người đàn ông tên là H là người lái xe ôm (L không biết địa chỉ của người lái xe ôm) chở L đi từ Tiểu khu N, thị trấn N đến bản P, xã V, huyện V tỉnh Sơn La mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đầu bản P, L xuống xe bảo anh H chờ ở ngoài đường, khi L đang đi bộ trên đường dân sinh của bản P, xã V thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 50 tuổi không quen biết, L hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói  Heroine được gói bên ngoài bằng mảnh túi nilon màu xanh với giá 100.000đ. Sau khi mua được Heroine, L đi vào bụi cây ven đường lấy một ít Heroine ra sử dụng, số Heroine còn lại L gói lại như cũ rồi nhặt một mảnh nilon màu trắng gói thêm ở bên ngoài, sau đó L cầm gói Heroine trên tay trái rồi đi bộ quay lại chỗ anh H đang chờ và đi về. Khi L đang đi bộ về phòng trọ thì gặp Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu đang làm nhiệm vụ, L đã thả gói Heroine xuống đất. Tổ công tác đã yêu cầu L nhặt gói Heroine lên giao nộp thì L nhặt gói Heroine lên giao nộp và khai nhận đó là Heroine của L, mục đích cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/12/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với VKSND huyện Mộc Châu và Phòng PC54 Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng (Khối lượng) số cục chất bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Bùi Thị L được trọng lượng là 0,29 gam; Lấy 0,10 gam làm mẫu gửi giám định, xác định có phải là ma túy không? Loại ma túy gì? Trọng lượng (Khối lượng) của mẫu giám định là bao nhiêu?, Mẫu có ký hiệu “L”

Tại kết luận giám định số 69/2018/KLMT ngày 14/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu L là chất ma túy; Loại chất Heroine; Trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,10  gam.Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 0,29 gam; Loại chất Heroine”

Tại bản cáo trạng số: 30/CT-VKSMC ngày 06/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Bùi Thị L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đồng thời đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Bùi Thị L từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,19 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí nội dung cáo trạng đã truy tố cũng như nội dung bản luận tội,  bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợppháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10h  40 phút, ngày 08/12/2017; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; Biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 08/12/2017 bị cáo Bùi Thị L đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,29 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Căn cứ khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo. Do đó bị cáo Bùi Thị L phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện hút chất ma túy. Do đó, xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, do đó cần xem xét để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,19 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu là vật Nhà nước cấm lưu hành và là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo và người đàn ông tên H lái xe ôm chở bị cáo như bị cáo đã khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý. Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị L (Tên gọi khác Bùi Thị H) phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Bùi Thị L 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày: 08/12/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,19 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HSST ngày 27/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về