Bản án 810/2018/HNGĐ-ST ngày 21/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 810/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2016/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 3 năm 2016 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2139/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3794/2018/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hà Hoàng N, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ tạm trú: xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Salazar Anthony J, sinh năm 1984 (vắng mặt) Quốc tịch: Hoa Kỳ

Địa chỉ: San Antonio, TX 78257, USA.

Bà Nguyễn Hà Hoàng N đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 01/3/2016 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Hà Hoàng N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Salazar Anthony J kết hôn trên cơ sở tựnguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 2282, Quyển số 12 ngày 06/9/2013. Sau khi kết hôn, bà và ông Salazar Anthony J chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông Salazar Anthony J là người không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên có những lời lẽ không phù hợp với bà. Kể từ khi kết hôn, do khoảng cách địa lý nên hai vợ chồng rất ít có thời gian chung sống với nhau và thỉnh thoảng chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại. Nhận thấy hai bên không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Salazar Anthony J.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh H, sinh ngày 29/3/2015. Hiện cháu H đang sống với bà. Bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H cho đến khi cháu thành niên, không yêu cầu ông Salazar Anthony J cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có. Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Salazar Anthony J, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã triệu tập hợp lệ: Tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày, giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Salazar Anthony J có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà N khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 849/UTTPDS-TA ngày 15/8/2016 (lần 1) và số 190/UTTPDS-TA30 ngày 06/7/2017 (lần 2)). Bộ Tư phápnước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có văn bản đề nghị Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) và Cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Theo đó, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Hiu-xtơn, Hoa Kỳ đã gửi thông báo cho bị đơn và niêm yết hồ sơ tại trụ sở Tổng Lãnh sự quán. Nhưng cho đến nay, ông Salazar Anthony J vẫn không có văn bản trả lời cho Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Hà Hoàng N, Hội đồng xét xử nhận thấy bà Ngôn và ông Salazar Anthony J kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn là ông Salazar Anthony J mang quốc tịch Hoa Kỳ, hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai; thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Nguyễn Hà Hoàng N yêu cầu ly hôn ông Salazar Anthony J, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà N (bà N cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì thực tế sau khi kết hôn bà N và ông Salazar Anthony J chỉ chung sống hạnh phúc trong một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà N và ông Salazar Anthony J không có quá trình chung sống lâu dài, do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Hiện nay bà N và ông Salazar Anthony J đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà N yêu cầu được ly hôn với ông Salazar Anthony J là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Quỳnh H, sinh ngày 29/3/2015, hiện bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Bà N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu H cho đến khi cháu thành niên, không yêu cầu ông Salazar Anthony J cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu H đã chung sống với mẹ từ khi sinh ra cho đến nay. Bà N khẳng định mình đủ khả năng kinh tế để nuôi con, không yêu cầu ông Salazar Anthony J có nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vậy để bảo đảm cuộc sống ổn định và điều kiện phát triển về mọi mặt cho cháu H, Hội đồng xétxử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của bà N, không yêu cầu ông Salazar Anthony J cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà Nguyễn Hà Hoàng N ly hôn với ông Salazar Anthony J và đề nghị giao cháu Nguyễn Quỳnh H cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Hà Hoàng N khai không có, Tòa án không xem xét.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà Nguyễn Hà Hoàng N chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84,Điều 121 và Điều 127của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Pháp lệnh 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án,

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hà Hoàng N được ly hôn với ôngSalazar Anthony J.

Giấy chứng nhận kết hôn số 2282, Quyển số 12 ngày 06/9/2013 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Nguyễn Hà Hoàng N và ông Salazar Anthony J không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Quỳnh H, sinh ngày29/3/2015 cho bà Nguyễn Hà Hoàng N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với ông Salazar Anthony J cho đến khi bà N có yêu cầu.

Ông Salazar Anthony J có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáodục con chung không ai được cản trở. Bà N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung của ông Salazar Anthony J nếu ông Salazar Anthony J lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì quyền lợi của con chung, khi có yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Nguyễn Hà Hoàng N khai không có, Tòa không xét.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà Nguyễn Hà Hoàng N chịu và được khấu trừ vào số tiền 200.000 đồng mà bà N đã đóng tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí số AE/2011/02696 ngày 23/3/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ tiền án phí.

5. Bà Nguyễn Hà Hoàng N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Salazar Anthony J được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 810/2018/HNGĐ-ST ngày 21/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:810/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về