Bản án 806/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 806/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1267/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/12/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 414/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 572/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Tuấn A – sinh năm 1982 (Có mặt) Địa chỉ: Số 10 N, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh

Bị đơn: Ông Trương Ngọc Phú C – sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 10 N, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/12/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Vũ Thị Tuấn A trình bày:

 1 Bà và ông Trương Ngọc Phú C tự nguyện đến với nhau. Hai bên có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 88-KH quyển số 01/2005 ngày 14/7/2005. Sau khi cưới vợ chồng sống tại nhà của cha mẹ bà tại địa chỉ số 10 N, phường T, quận Tân Phú. Thời gian đầu chung sống có hạnh phúc nhưng về sau phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, mỗi người sống theo cách của riêng mình, tự quyết định công việc của mình, không bàn bạc, không thống nhất. Ông C có biểu hiện thiếu chung thủy, thường xuyên vắng nhà. Bà gọi điện thoại nhưng ông C không nghe máy, nhắn tin không trả lời. Bà nhiều lần trao đổi với ông C về việc gia đình để vợ chồng có tiếng nói chung nhưng ông C không hợp tác mà có những lời lẽ xúc phạm. Bà mong muốn vợ chồng chung sống hạnh phúc để con cái không bị ảnh hưởng bởi tình cảm của cha mẹ, tuy nhiên ông C luôn gây sự dẫn đến hai bên thường xuyên cãi nhau. Bà và ông C tuy ở chung nhà nhưng không quan tâm, chăm sóc, chia sẻ gì với nhau khoản 3 năm nay. Ông C hiện đã ra ngoài sống riêng. Do đó, bà nhận thấy đời sống chung vợ chồng không có hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với ông C.

Về quan hệ con chung: Có 2 con chung tên là Trương Vũ Khoa T, sinh ngày 24/7/2007 và Trương Vũ Ánh M, sinh ngày 16/4/2013. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà khai không có và không nợ ai Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Trương Ngọc Phú C nhưng ông C vẫn vắng mặt. Ông C không có lời khai, cũng như Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

Tại phiên Tòa hôm nay ông C vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú phát biểu quan điểm:

Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết : Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ tranh chấp về ly hôn. Do bị đơn cư trú tại quận Tân Phú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú.

Thời hạn tố tụng: Vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, kiến nghị rút kinh nghiệm.

Về người tham gia tố tụng : Xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng. Về thu thập chứng cứ : Thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án : Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn. Căn cứ lời khai và các chứng cứ thu thập được thể hiện vợ chồng bà Tuấn A và ông C chung sống với nhau có xảy ra mâu thuẫn. Thực tế vợ chồng không sống chung nhà, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông C không đến Tòa án để trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, điều này thể hiện ông C không mong muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, do đó yêu cầu xin ly hôn của bà Tuấn A là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về quan hệ con chung : Bà Tuấn A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là trẻ Trương Vũ Khoa T, sinh ngày 24/7/2007 và Trương Vũ Ánh M, sinh ngày 16/4/2013. Bà Tuấn A không yêu cầu ông C đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Bà Tuấn A xác nhận hai con chung đang do bà trực tiếp nuôi dưỡng và phù hợp với lời khai của trẻ T và trẻ M có nguyện vọng xin được ở cùng với mẹ. Do đó căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xet xử chấp nhận yêu cầu của bà Tuấn A.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà khai không có và không nợ ai nên không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa sở thẩm, thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Tuấn A, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ tranh chấp về “Ly hôn”. Do ông C hiện đang cư ngụ tại quận Tân Phú nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục xét xử vắng mặt:

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Trương Ngọc Phú C nhưng ông C vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn ông C theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 88-KH quyển số 01/2005 do Ủy ban nhân dân xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 14/7/2005 thì quan hệ hôn nhân giữa bà Vũ Thị Tuấn A và ông Trương Ngọc Phú C là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Bà Tuấn A nhận thấy vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được do đó bà yêu cầu được ly hôn với ông C.

Căn cứ vào chứng cứ, lời khai của bà Tuấn A và các chứng cứ thu thập trong quá trình giải quyết vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa hôm nay thể hiện thời gian vợ chồng bà Tuấn A, ông C chung sống với nhau có phát sinh mâu thuẫn. Hiện bà Tuấn A và ông C không sống chung nhà, mỗi người tự lo cuộc sống của mình không quan tâm chia sẽ những khó khăn trong cuộc sống. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Tuấn A và ông C đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, ông C không đến Tòa án để trình bày lời khai, cũng như ý kiến của mình về quan hệ hôn nhân giữa hai bên, thể hiện ông C chưa thật sự thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy, tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Thực tế bà Tuấn A và ông C không sống chung nhà thì hai bên không thể thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng. Do đó yêu cầu xin ly hôn của bà Tuấn A đối với ông C là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Xét, bà Tuấn A yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con chung là trẻ Trương Vũ Khoa T, sinh ngày 24/7/2007 và Trương Vũ Ánh M, sinh ngày 16/4/2013, không yêu cầu ông C đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Ông C không đến Tòa án để trình bày lời khai nên không có cơ sở để xem xét ý kiến của ông đối với con chung. Tuy nhiên việc xem xét giao con chung cho ai nuôi dưỡng thì phải xuất phát từ lợi ích mọi mặt của các con, để các trẻ phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Mặt khác, trẻ T và trẻ M hiện đang sinh sống củng bà Tuấn A và có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó để tránh xự xáo trộn về tâm lý cũng như nơi ở của các trẻ, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Tuấn A.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tuấn A khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu ông C có chứng cứ cho rằng hai bên có tài sản chung và nợ chung thì được giải quyết bằng vụ án khác khi các bên có yêu cầu.

[4]Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Tuấn A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,  Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

 - Khoản 1 Điều 28; điểm b khoản 1 Điều 35;điểm a khoản 1 Điều 39:

khoản 1 Điều 147;Điều 227; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự :

- Điều 56, 81, 82, 83, 84, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình - Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị Tuấn A.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Vũ Thị Tuấn A được ly hôn với ông Trương Ngọc Phú C. Quan hệ hôn nhân giữa bà Tuấn A và ông C theo Giấy chứng nhận kết hôn số 88-KH quyển số 01/2005 do Ủy ban nhân dân xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 14/7/2005, chấm dứt kể từ ngày Bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Về quan hệ con chung: Giao hai con chung là trẻ Trương Vũ Khoa T, sinh ngày 24/7/2007 và Trương Vũ Ánh M, sinh ngày 16/4/2013 cho bà Tuấn A trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông C do bà Tuấn A chưa có yêu cầu.

Ông C có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở. Bà Tuấn A cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trong trường hợp ông C lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Tuấn A có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông C.

Trong trường hợp bà Tuấn A không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì trên cơ sở lợi ích của con, ông C hoặc người thân thích, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tuấn A khai không có.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 đồng bà Vũ Thị Tuấn A chịu được trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà Tuấn A đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0020273 ngày 16/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 806/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:806/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về