Bản án 80/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 80/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Hà Minh Đ, sinh ngày 03/10/1981; Nơi cư trú: Số nhà 35/04, đường H, tổ 10, phường Đ, thành phố T, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Hà Đức V (đã chết) và bà Lê Thị H (đã chết); Sống chung như vợ chồng với chị Dương Thị Hồng N và có 01 con sinh năm 2011.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Quyết định số 81/QĐ-TA ngày 22/12/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong tháng 8/2019.

Nhân thân: Năm 2001 tham gia nghĩa vụ quân sự đến tháng 12/2003 xuất ngũ về địa phương sinh sống.

Bản án số 140/2014/HSST ngày 28/8/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt Hà Minh Đ 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tháng 01/2015.

Ngày 12/7/2003 Công an phường T1, quận T2, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính về an ninh trật tự bằng hình thức phạt tiền, chấp hành xong tháng 7/2003.

Quyết định số 3534/QĐ-UB ngày 25/9/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong tháng 9/2009.

Quyết định số 1074/QĐ-UB ngày 26/5/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong tháng 5/2011.

Quyết định số 1570/QĐ-UB ngày 17/5/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 12 tháng, chấp hành xong tháng 5/2012.

Bị tạm giữ từ ngày 30/3/2021 đến ngày 02/4/2021 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Bình. (Có mặt) * Bị hại:

Anh Bùi Minh T, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn C, xã P, huyện Đ, tỉnh T.

* Người làm chứng:

- Chị Nhâm Thị N, sinh năm 1992 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Tr, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T.

- Anh Hoàng Kim Hoài N, sinh năm 2000 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Số nhà 34, ngõ 217, đường L, tổ 13, phường K, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 29/3/2021, Hà Minh Đ đi bộ từ nhà đến nhà anh Hà Văn K, sinh năm 1976, trú tại số nhà 40, ngõ 217 đường L, tổ 13, phường K, thành phố T chơi. Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày Đ ra về. Khi Đ đi qua số nhà 23, ngõ 217 thì thấy cổng, cửa nhà đều mở, trong sân có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu sơn trắng, biển kiểm soát 17B2-138.82 của anh Bùi Minh T là người thuê nhà số 23. Đ quan sát thấy trong nhà không có người nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên. Hà Minh Đ đi vào trong sân, tiến đến gần chiếc xe mô tô, cầm vào tay lái xe kiểm tra thấy xe không khóa cổ, khóa càng, Đ dắt chiếc xe trên lùi lại rồi quay đầu xe để dắt xe ra ngoài. Khi dắt xe ra đến cổng, Đ dùng chân phải gạt chân chống phụ của xe làm phát sinh tiếng kêu nên anh Bùi Minh T đang ở trong nhà nghe thấy hô hoán: “Trộm...”, Đ thấy bị phát hiện nên đã vứt chiếc xe mô tô lại và bỏ chạy ra đường L hướng về Uỷ ban nhân dân phường K, thành phố T. Lúc này anh Bùi Minh T cùng quần chúng nhân dân đuổi theo Hà Minh Đ. Khi Đ chạy đến khu vực Uỷ ban nhân dân phường K thì bị tổ tuần tra của Công an thành phố Thái Bình phối hợp với quần chúng nhân dân đuổi theo bắt giữ.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 12 ngày 31/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Bình kết luận: Tổng giá trị của chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu sơn trắng, biển kiểm soát 17B2-138.82 tại thời điểm ngày 29/3/2021 là 8.200.000 đồng (Tám triệu hai trăm nghìn đồng).

Bản Cáo trạng số 79/CT-VKSTP ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Hà Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Minh Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Hà Minh Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 30/3/2021.

Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Công an thành phố Thái Bình đã trả lại cho anh Bùi Minh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu sơn trắng, biển kiểm soát 17B2-138.82. Do tài sản đã trả lại bị hại và anh Thương không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác vải dài tay màu đen đã qua sử dụng, mặt trước áo có in chữ MOMENT và 01 mũ lưỡi trai bằng vải màu đen đã qua sử dụng, trên mũ có in chữ CALVIN KLEIN màu vàng, do không còn giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Hà Minh Đ nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Hà Minh Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại, kết luận định giá, lời khai người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 29/3/2021 tại số nhà 23, ngõ 217 đường L, tổ 13, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Hà Minh Đ đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, biển kiểm soát 17B2-138.82, màu sơn trắng, trị giá 8.200.000 đồng của anh Bùi Minh T, sinh năm 1987, cư trú tại thôn C, xã P, huyện Đ, tỉnh T.

Hành vi trên của Hà Minh Đ đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản". Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý phạm tội. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt tù về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học, không rèn luyện bản thân trở thành người công dân có ích cho xã hội mà còn vi phạm pháp luật.

[4] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố đối với bị cáo Hà Minh Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bản thân bị cáo có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Công an thành phố Thái Bình đã trả lại cho anh Bùi Minh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu sơn trắng, biển kiểm soát 17B2-138.82. Do tài sản đã trả lại bị hại và anh Thương không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Về 01 áo khoác vải dài tay màu đen đã qua sử dụng, mặt trước áo có in chữ “MOMENT” và 01 mũ lưỡi trai bằng vải màu đen đã qua sử dụng, trên mũ có in chữ “CALVIN KLEIN” màu vàng không còn giá trị sử dụng, bị cáo không có nhu cầu lấy lại nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo Hà Minh Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật hình sự; Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Hà Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Hà Minh Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 30/3/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác vải dài tay màu đen đã qua sử dụng, mặt trước áo có in chữ “MOMENT” và 01 mũ lưỡi trai bằng vải màu đen đã qua sử dụng, trên mũ có in chữ “CALVIN KLEIN” màu vàng.

(Vật chứng, tài sản trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/6/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Hà Minh Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hà Minh Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:80/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về