Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 80/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 276/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị B, sinh năm 1989; tạm trú: tổ 17, khu dân cư khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên lạc: đường số 9, trung tâm hành chính D, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Quang N, sinh năm 1987; địa chỉ: tổ 17, khu dân cư khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 26/3/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đinh Thị B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị B và anh Lê Quang N sau thời gian tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 17/2017, cấp ngày 10/02/2017. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Vợ chồng chung sống với nhau không có hạnh phúc. Nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, anh N thường xuyên bạo lực gia đình, đánh đập chị B một cách vô cớ gây thương tích. Chị B nhiều lần tạo cơ hội để cả hai cùng thay đổi và hòa hợp gia đình nhưng không có kết quả, vì vậy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, chị B xác định không còn tình cảm với chồng nên yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một người con chung, tên Lê Khôi N, sinh ngày 22/11/2016, hiện đang sống chung với chị B và anh N. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố và không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị B và anh N do Tòa án tiến hành ngày 01/7/2019, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Chị B và anh N trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án chị B không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống thực tế mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, vấn đề chăm sóc, nuôi dạy con chung như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố hay địa phương phản ánh phản ánh hay cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan. Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhận thấy yêu cầu ly hôn và được nuôi con của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 12/7/2019 và ngày 31/7/2019 nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Năm 2017 chị Đinh Thị B và anh Lê Quang N tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 17/2017, cấp ngày 10/02/2017 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[2.2] Nguyên đơn xác định sau khi kết hôn vợ chồng sống không có hạnh phúc, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống và bị đơn có tính vũ phu, bài bạc. Mặc nguyên đơn đã nhiều lần tạo cơ hội để cho bị đơn sửa đổi, hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả. Từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, làm cho không khí gia đình ngột ngạt nên tình cảm của nguyên đơn giành cho chồng cũng phai nhạt dần. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập nguyên đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của bị đơn đối với nguyên đơn thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

[2.3] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc bị đơn không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với nguyên đơn cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Tòa án chấp nhận.

[2.4] Về con chung: Chị Đinh Thị B và anh Lê Quang N có con chung tên Lê Khôi N, sinh ngày 22/11/2016. Hiện con chung đang ở cùng với nguyên đơn và bị đơn, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về vấn đề này cho bị đơn nhưng không có ý kiến phản đối gì. Xét thấy, cháu N từ nhỏ đến nay sống chung với mẹ và được quan tâm chăm sóc nhiều, hiện vẫn phát triển tốt. Do đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.5] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là sự tự nguyện của nguyên đơn nên Tòa án ghi nhận.

[2.6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[2.7] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

[2.8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đinh Thị B.

Về hôn nhân: Chị Đinh Thị B được ly hôn với anh Lê Quang N (theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 17/2017, cấp ngày 10/02/2017 của UBND phường Tân Phú, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh).

2. Về con chung: Giao người con chung tên Lê Khôi N, sinh ngày 22/11/2016 cho chị Đinh Thị B trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Lê Quang N không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị Đinh Thị B và anh Lê Quang N có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Lê Quang N lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Đinh Thị B nuôi con thì chị B có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh N theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Đinh Thị B không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đinh Thị B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0028309 ngày 02/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:80/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về