Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 80/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 82/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm: 1985. (Có mặt).

Hộ khẩu thường trú: Ấp TS 1A, xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Chỗ ở: Số 315 đường 27/4, khu phố TS, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Bị đơn: Ông Phạm Mạnh T, sinh năm: 1982. (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Hộ khẩu thường trú: Ấp TS 1A, xã PT, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Chỗ ở: Số 315 đường 27/4, khu phố TS, thị trấn PB, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2019 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn – Bà Lê Thị H trình bày:

Bà H xây dựng gia đình với ông Phạm Mạnh T vào năm 2010 nhưng đến năm 2011 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã XM, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới bà H và ông T có tìm hiểu nhau một thời gian. Sau khi kết hôn bà H và ông T sinh sống tại nhiều nơi, đến năm 2017 thì bà H và ông T chuyển đến sinh sống tại khu phố TS, thị trấn PB, huyện XM. Quá trình chung sống thì bà H và ông T không tránh khỏi va chạm tranh cãi nhưng mâu thuẫn đỉnh điểm là vào năm 2018 nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, nên thường xảy ra cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung nên ngày càng xa cách. Bà H và ông T đã cố gắng hàn gắn nhưng tình hình không có gì thay đổi. Hiện bà H và ông T vẫn còn sống chung trong một nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà H và ông T có 02 con chung tên Phạm Lê Bảo M, sinh ngày 08/9/2011 và Phạm Lê Bảo N, sinh ngày 19/10/2017. Hiện 02 con chung đang sống với bà H và ông T. Bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.500.000đ/tháng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản khai, biên bản làm việc tại Tòa án, bị đơn ông Phạm Mạnh T trình bày:

Về thời gian, điều kiện hoàn cảnh kết hôn, ông T thống nhất như lời trình bày của bà H. Sau khi kết hôn ông T và Hạnh chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do công việc nhiều, ông T bận lo toan cho gia đình nên không có thời gian quan tâm đến bà H. Ngoài ra chuyện tiền bạc giữa ông T và bà H cũng bất đồng quan điểm, ông T làm cũng lo kinh tế cho gia đình nhưng bà H không hiểu nên vợ chồng không có tiếng nói chung. Hiện ông T và bà H vẫn còn sống chung trong một nhà. Theo yêu cầu ly hôn của bà H thì ông T không đồng ý, ông T muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: Ông T và bà H có 02 con chung tên Phạm Lê Bảo M, sinh ngày 08/9/2011 và Phạm Lê Bảo N, sinh ngày 19/10/2017. Hiện 02 con chung đang sống với bà H và ông T. Theo biên bản làm việc tại Tòa án thì ông T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Lê Bảo M, ông T không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi cháu Minh. Ông T đồng ý để bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Lê Bảo N và ông T cấp dưỡng nuôi cháu Ngọc mỗi tháng 1.500.000đ.

Sau đó Tòa án mời hòa giải nhiều lần nhưng không T vắng mặt không có lý do, đến ngày 19/7/2019 ông T có đơn xin xét xử vắng mặt và tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 19/7/2019 ông T thể hiện quan điểm: Về quan hệ hôn nhân ông T đồng ý ly hôn, về con chung ông T đồng ý để bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung và đồng ý cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi cháu 1.500.000đ/tháng theo yêu cầu của bà H.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T và bà H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên Tòa, ông T có đơn xin vắng mặt. Hội đồng xét xử công bố toàn bộ lời trình bày của ông T trong hồ sơ vụ án.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn còn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây là chưa chấp hành đúng pháp luật. Vụ án còn để kéo dài quá thời hạn xét xử nhưng không có quyết định gia hạn là còn thiếu sót nhưng không gây ảnh hưởng lớn đến nội dung vụ án đề nghị Tòa án rút kinh nghiệm.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Lê Thị H yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Phạm Mạnh T, đây là quan hệ pháp luật ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Phạm Mạnh T có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn ông Phạm Mạnh T có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy việc xét xử vắng mặt ông T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông T xây dựng gia đình vào năm 2010 nhưng đến năm 2011 mới đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 54/2011, quyển số 03/2011 ngày 14/6/2011 tại UBND xã XM, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà H và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bà H và ông T bất đồng quan điểm nên thường phát sinh cãi vã, vợ ch ồng không có tiếng nói chung . Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, xa cách . Bà H và ông T đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Hiện bà H và ông T vẫn còn sống chung trong một nhà nhưng mạnh ai sống, không quan tâm gì đến nhau. Nay bà H yêu cầu ly hôn, ông T đồng ý ly hôn.

Xét lời trình bày của bà H và ông T là thống nhất Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà H và ông T thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được và ông T cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà H. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông T.

[3] Về con chung: Bà H và ông T có 02 con chung tên Phạm Lê Bảo M, sinh ngày 08/9/2011 và Phạm Lê Bảo N, sinh ngày 19/10/2017. Hiện 02 con chung đang sống với bà H và ông T.

Nhận thấy, bà H có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, cháu Minh có nguyện vọng ở với bà H và ông T cũng đồng ý để bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Do đó giao 02 con chung cho bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, bà H yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.500.000đ/tháng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi thì ông T đồng ý. Đây là sự tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông T.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và ông T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị H đối với ông Phạm Mạnh T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn với ông Phạm Mạnh T.

2. Về con chung: Hạnh và ông T có 02 con chung tên Phạm Lê Bảo M, sinh ngày 08/9/2011 và Phạm Lê Bảo N, sinh ngày 19/10/2017. Hiện 02 con chung đang sống với bà H và ông T. Bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Ông T có trách nhiệm giao cháu Minh và cháu Ngọc cho bà H nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi 02 con chung của ông T mỗi cháu 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung được thực hiện từ tháng 8 năm 2019 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Ông Phạm Mạnh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải chịu thêm khoản tiền lãi tính theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án và số tiền chậm thi hành án tại thời điểm thanh toán.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và ông T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Lê Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006637 ngày 25/02/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà H đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ông Phạm Mạnh T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:80/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về