Bản án 80/2018/DS-PT ngày 06/04/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 80/2018/DS-PT NGÀY 06/04/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào ngày 06 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2018/TLPT-DS ngày 25 tháng 01 năm 2018 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 79/2017/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo, kháng nghị. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 44/2018/QĐ-PT ngày 21 tháng 3 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1923, đã chết trong quá trình tham gia tố tụng.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà K:

+ Ông Lê Văn H, sinh năm 1966; cư trú tại: Khu phố B, Phường B1, thành phố T1, tỉnh Tây Ninh; có mặt;

+ Bà Lê Thị Tuyết L, sinh năm 1960;

+ Bà Lê Thị Tuyết H1, sinh năm 1968;

Cùng cư trú tại: Ấp P1, xã P, huyện T, tỉnh Tây Ninh;

+ Bà Lê Thị D, sinh năm 1952; cư trú tại: Phường S, quận T2, Thành phố HồChí  Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Tuyết L, bà Lê Thị Tuyết H1, bà Lê Thị D: Ông Lê Văn H, sinh năm 1966; cư trú tại: Khu phố B, Phường B1, thành phố T1, tỉnh Tây Ninh, theo văn bản ủy quyền ngày 20-3-2017, văn bản ủy quyền ngày 05-4-2018; - Bị đơn: Ông Lê Văn X, sinh năm 1961; bà Trần Thị Ngọc B, sinh năm 1959; cùng cư trú tại: Ấp P1, xã P, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn X: Bà Trần Thị Ngọc B, theo văn bản ủy quyền ngày 05-4-2018; có mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ủy ban nhân dân huyện T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn M - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyệnT.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn M: Ông Lê Hòa L2 - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T, theo văn bản ủy quyền ngày 30-8-2017; yêu cầu

+ Ông Lê Văn T, sinh năm 1952; cư trú tại: Ấp M, xã P2, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt;

+ Bà Lê Thị Tuyết N, sinh năm 1958; cư trú tại: Ấp G1, xã M1, huyện Đ1, tỉnh Long An; vắng mặt;

+ Bà Lê Thị Tuyết T1, sinh năm 1960; cư trú tại: Phường N1, Quận N2, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị K và trong quá trình tham gia tố tụng, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà K là ông Lê Văn H trình bày:

Vào năm 1974, cha của ông là ông Lê Văn T2 được các anh, chị em trong đó có ông Lê Văn R là cha của ông Lê Văn X chia cho phần đất khoảng 02 ha, tọa lạc tại ấp P1, xã P, huyện T, việc chia đất chỉ họp mặt nhau chia, không làm giấy tờ. Gia đình ông sử dụng đất từ năm 1974 đến năm 1991 thì bị ông T3 (con rể ông Q), ông Lê Văn X, ông Lê Văn S dùng vũ lực chiếm lấy và canh tác. Phần đất bị ông X chiếm là 6.859 m2, gồm 04 thửa: 443, 444, 350 và 351.

Năm 1991, ông T2 khiếu nại, Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1991 nội dung bác đơn khiếu nại của ông T2. Không đồng ý với quyết định này, ông T2 tiếp tục khiếu nại, đến năm 2001 Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số: 753/QĐ-UB ngày 21-12-2001 thu hồi Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1991 của Ủy ban nhân dân xã P. Do phần đất tranh chấp ông X đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng từ năm 1993 nên phải khởi kiện tại Tòa án.

Ông T2 đã chết vào năm 1995 nên bà K đứng đơn khởi kiện, Tòa án đã thụ lý vụ án từ năm 2006 đến nay, giải quyết nhiều lần nhưng sau đó bản án bị hủy theo trình tự giám đốc thẩm, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm.

Trong quá trình giải quyết vụ án thì bà K chết vào ngày 03-4-2015 nên các con gồm: Bà Lê Thị Tuyết L, bà Lê Thị Tuyết H1, bà Lê Thị D và ông kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà K tiếp tục khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Lê Văn X và bà Trần Thị Ngọc B phải trả lại phần đất diện tích 6.859 m2; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12-1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông X đứng tên.

Bà Lê Thị Tuyết L, bà Lê Thị Tuyết H1 ủy quyền cho ông tham gia tố tụng, ý kiến của ông cũng là ý kiến của họ.

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị K – bà Lê Thị D trình bày:

Bà là con riêng của bà K, ông Lê Văn T2 là cha dượng, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả đất cho bà K để các con của bà K được hưởng, riêng bà không yêu cầu được hưởng, không yêu cầu chia đối với phần đất tranh chấp.

Bị đơn - ông Lê Văn X trình bày:

Vào năm 1974, ông T2 có phần đất ở B2 nhưng không canh tác mà cho mượn vì ruộng sâu khó làm, ông T2 mượn của cha ông là Lê Văn R một phần đất để canh tác. Do ông T2 bị thương, điều kiện đi lại khó khăn nên ông R cho ông T2 mượn 6.859 m2 để sản xuất, đến năm 1991, ông T2 lấy lại đất ở B2 nên ông lấy lại phần đất này. Ông T2 có đến gặp ông để xin luôn phần đất này nhưng ông không đồng ý nên ông T2 làm đơn khiếu nại ra Ủy ban nhân dân xã. Ngày 29-02-1992, Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số: 02/QĐ-UB nội dung buộc ông T2 trả lại đất cho ông canh tác. Ông đã kê khai, đăng ký nên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1993. Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn - bà Trần Thị Ngọc B trình bày:

Bà là vợ của ông X, thống nhất với ý kiến của ông X, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân huyện T do ông Lê Hòa L2 đại diện, có văn bản trình bày:

Bà K không chỉ khởi kiện đối với phần đất ông X, bà B đang sử dụng mà còn khởi kiện 02 phần đất khác. Ủy ban nhân dân huyện T xác định nguồn gốc các phần đất mà bà Nguyễn Thị K đang tranh chấp như sau:

Ông Lê Văn N1 và vợ là bà Dương Thị N2 thừa hưởng của cha mẹ để lại khoảng 89 ha đất. Ông N1, bà N2 có tất cả 07 người con, số đất này chia cho 06 người, riêng người con út là Lê Văn T2 thoát ly gia đình đi tham gia cách mạng từ năm 1945 nên không chia.Năm 1974 ông T2 trở về, anh, chị, em của ông T2 cùng thỏa thuận chia đất cho ông T2, cụ thể là:  Ông Lê Văn R giao 6.445 m2, ông Lê Văn T4 giao 6.851 m2, ông Lê Văn Q giao 7.378 m2, tổng cộng là 20.657 m2.Đến năm 1977, ông T4 mượn lại 2.474 m2  đất để gieo mạ và sử dụng. Diện tích còn lại là 18.200 m2 gia đình ông T2 tiếp tục sử dụng đến năm 1991 thì ông Lê Văn T4, Lê Văn X, Lê Văn S lấy lại.

Trong năm 1991, ông T2 khiếu nại yêu cầu giải quyết, Ủy ban nhân dân xã P đã ban hành Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1992, nội dung thu hồi đất của ông T2 để giao lại cho ông K, ông T, ông Q vì cho rằng trước đây ông K, ông T4 và ông Q chỉ tạm cho ông T2 mượn sử dụng. Ông T2 không đồng ý và tiếp tục khiếu nại lên cấp trên. Trong khi vụ án chưa được giải quyết thì năm 1993, ông Lê Quang V, ông Lê Văn X đi kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Riêng ông Lê Văn S sau khi lấy lại đất đã đổi một phần đất diện tích 2.058 m2 cho ông Lê Văn T5 và ông T5 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất này.

Ông T2 chết, vợ là bà Nguyễn Thị K tiếp tục khiếu nại. Năm 2001, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số: 753/QĐ-UB ngày 21-12-2001, về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà K với ông S với nội dung công nhận phần đất diện tích 2.319 m2 thuộc quyền sử dụng của bà K; phần đất còn lại có tổng diện tích 15.881 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông X, ông V, ông T5 thì đề nghị bà K khởi kiện tại Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền.

Từ năm 1975 đến 1991, gia đình ông T2 đã cải tạo và sử dụng phần đất diện tích 18.200 m2  nêu trên liên tục 16 năm, có nộp thuế cho Nhà nước. Việc Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1992, thu hồi đất của ông T2 đang sử dụng là trái với quy định tại khoản 3 Điều 2 của Quyết định số: 13HĐBT ngày 01-02-1989, của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.

Căn cứ Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1992, Ủy ban nhân dân xã P cho kê khai đăng ký và đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông V, ông X, ông T5 trong khi đất còn đang tranh chấp là không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 2 của Luật Đất đai năm 1993.

Đối với phần diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông X, ông V có chênh lệch so với diện tích thực tế hiện nay là do trước đây cấp giấy theo bản đồ 299 (Bản đồ không ảnh) nên diện tích không chuẩn xác, phần diện tích chênh lệch đó là sai số giữa hai lần đo nên xem như đã được cấp giấy theo bản đồ đo lưới hiện nay.

Ủy ban nhân dân huyện T đã ban hành Quyết định số: 753/QĐ-UB ngày 21- 12-2001, thu hồi Quyết định số: 02/QĐ-UB ngày 29-02-1992, của Ủy ban nhân dân xã P và công nhận phần đất 2.319 m2 do ông Lê Văn S đang quản lý cho bà K được quyền sử dụng.

Quan điểm của Ủy ban nhân dân huyện T là bà Nguyễn Thị K là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với phần diện tích đất đang tranh chấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- bà Lê Thị Tuyết N trình bày:

Bà là con riêng của ông Lê Văn T2. Ông T2 và mẹ bà là Lê Điều N3 chung sống có 05 người con chung gồm: Lê Văn T, Lê Thị Tuyết N, Lê Thị Tuyết T1, Lê Thị Tuyết N4, Lê Văn S1. Riêng bà Lê Thị Tuyết N4 và ông Lê Văn S1 đã bỏ địa phương đi từ nhiều năm nay, không rõ tung tích.

Trong thời gian thoát ly gia đình, tham gia cách mạng, ông T2 đã được anh, chị, em chia cho 4,5 ha đất ruộng tại B2, Ủy ban nhân dân xã P mượn để canh tác, đến năm 1991 thì trả lại, lúc này ông T2 đã về. Sau khi nhận lại đất ông T2 đã chia cho các anh, chị, em của bà gồm Lê Văn T, Lê Thị Tuyết N, Lê Thị Tuyết T1, Lê Thị Tuyết N4 mỗi người 01 ha, còn 0,5 ha chia cho Lê Thị Tuyết H1 (con của ông T2 và bà Nguyễn Thị K), anh, chị, em bà đã chuyển nhượng đất cho người khác vì không có nhu cầu sử dụng.

Bà không yêu cầu chia phần đất bà K đang tranh chấp vì đã được ông T2 chia phần rồi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thị Tuyết T1 trình bày:

Bà là con của ông Lê Văn T2 và bà Lê Điều N3. Thống nhất với lời trình bày của bà Lê Thị Tuyết N, không yêu cầu chia phần đất đang tranh chấp vì đã được ông T2 cho đất tại B2.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Lê Văn T trình bày:

Ông là con của ông Lê Văn T2 và bà Lê Điều N3. Thống nhất với lời trình bày của bà Lê Thị Tuyết N, không yêu cầu chia phần đất đang tranh chấp vì đã được ông T2 cho đất tại B2.

Quá trình giải quyết vụ án như sau:

Bản án sơ thẩm số: 66/2006/DS-ST ngày 26-9-2006, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà K. Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn kháng cáo;

Bản án phúc thẩm số: 315/2007/DS-PT ngày 21-9-2007, của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K. Sau đó bà K khiếu nại;

Quyết định giám đốc thẩm số: 08/2011/DS-GĐT ngày 17-01-2011, của Tòa án nhân dân tối cao, hủy Bản án sơ thẩm số: 66/2006/DS-ST ngày 26-9-2006 và Bản án phúc thẩm số: 315/2007/DS-PT ngày 21-9-2007, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm

Bản án sơ thẩm số: 144/2011/DS-ST ngày 20-9-2011, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng (sơ thẩm lần II), không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K. Bà K kháng cáo;

Bản án phúc thẩm số: 125/2013/DS-PT ngày 03-7-2013, của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh (phúc thẩm lần II), không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà K, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau đó bà K khiếu nại;

Bản án Giám đốc thẩm số: 194/2016/DS-GĐT ngày 07-9-2016 của Tòa án nhân  dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy Bản án sơ thẩm số:144/2011/DS-ST ngày 20-9-2011 và Bản án phúc thẩm số: 125/2013/DS-PT ngày 03-7-2013, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Đất tranh chấp qua đo đạc, định giá xác định được như sau:Diện tích thực tế là 6.031 m2 đất thuộc các thửa: 33, 34, 35, 36, tờ bản đồ số 13 (năm 2005), diện tích giảm do trừ diện tích mương nước là 828 m2; diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 6.859 m2, thuộc các thửa: 350, 351, 443, 444; tờ bản đồ 07 (bản đồ 299); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12-1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông X đứng tên. Giá trị là 271.395.000 (hai trăm bảy mươi mốt triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn) đồng.

Bản án dân sự sơ thẩm số: 79/2017/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Căn cứ Khoản 1 Điều 136 của Luật đất đai năm 2003; khoản 2 Điều 27 của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với ông LêVăn X và bà Trần Thị Ngọc B về việc tranh chấp quyền sử dụng phần đất diện tích 6.859 m2 đất thuộc các thửa 33, 34, 35, 36, tờ bản đồ số 13 (năm 2005), tọa lạc tại ấp P1, xã P, huyện T tỉnh Tây Ninh.

Không chấp nhận yêu cầu của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà K gồm: Ông Lê Văn H, bà Lê Thị Tuyết L, bà Lê Thị Tuyết H1 về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12-1993 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho ông Lê Văn X.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí thẩm định, định giá; án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 30 tháng 10 năm 2017, ông Lê Văn H có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 06 tháng 12 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh có Quyết định kháng nghị số: 01/QĐKNPT-VKS-DS, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bà Lê Thị D ủy quyền cho ông H tham gia tố tụng, ông H giữ nguyên ý kiến của bà D là không yêu cầu được hưởng, không yêu cầu chia đối với phần đất tranh chấp.

Ông Lê Văn H và bà Trần Thị Ngọc B thỏa thuận được như sau: Ông Lê Văn X, bà Trần Thị Ngọc B được tiếp tục sử dụng phần đất diện tích 6.859 m2 thuộc các thửa: 33, 34, 35, 36, tờ bản đồ số 13 (năm 2005), tương ứng các thửa: 350, 351, 443, 444; tờ bản đồ 07 (bản đồ 299); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12-1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông X đứng tên.

Ông Lê Văn X, bà Trần Thị Ngọc B giao cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị K gồm: Lê Thị Tuyết L, Lê Thị Tuyết H1, Lê Văn H số tiền 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, đã giao nhận xong tại Tòa án.

Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12-1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông Lê Văn X đứng tên.

Về chi phí tố tụng khác: Ông H, bà L, bà H1 tự nguyện chịu 1.350.000 (một triệu ba trăm năm mươi nghìn) đồng tiền chi phí đo đạc, định giá; đã nộp xong.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông X, bà B phải chịu 3.500.000 (ba triệu nămtrăm nghìn) đồng.

Ý kiến của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiêtòa:

Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử v quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp hành đúng nội quy phiên tòa;

Về nội dung: Các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, sự thỏa thuận là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Văn H là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Nguyễn Thị K cũng là người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà K gồm: Bà Lê Thị Tuyết L, bÀ Lê Thị Tuyết H1 đã thỏa thuận được với bị đơn là bà Trần Thị Ngọc B về việc giải quyết vụ án, sự thỏa thuận của họ là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án. Thuộc trường hợp theo quy định tại Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm.

[2] Ông H đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị D giữ nguyên yêu cầu của bà D là không tranh chấp, không yêu cầu được hưởng đối với đất tranh chấp nên ghi nhận.

[3] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là có căn cứ.

[4] Về án phí phúc thẩm: Ông Lê Văn H phải chịu 300.000 đồng theo quy định tại khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12- 2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 300 của Bộ luật Tố tụng dân sự;khoản 5 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số: 79/2017/DS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017, của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

2. Ghi nhận bà Lê Thị D không tranh chấp, không yêu cầu được hưởng đối với đất tranh chấp.

3. Công nhận sự thỏa thuận giữa ông Lê Văn H và bà Trần Thị Ngọc B tại phiên tòa phúc thẩm, cụ thể như sau

3.1. Ông Lê Văn X, bà Trần Thị Ngọc B được tiếp tục sử dụng phần đất diện tích 6.859 m2 thuộc các thửa: 33, 34, 35, 36, tờ bản đồ số 13 (năm 2005), tương ứng các thửa: 350, 351, 443, 444; tờ bản đồ 07 (bản đồ 299); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12- 1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông X đứng tên; tứ cận: Đông giáp đất ông X dài 14,30 m và thửa đất số 37 dài 58,1 m; Tây giáp đường đất dài 7,53 m + 68,16 m; Nam giáp mương nước dài 43,04 m +9,32 m + 9,35 m + 19,36 m; Bắc giáp mương nước dài 43,81 m + 1,28 m + 9,14 m + 9,03 m.

3.2. Ông Lê Văn X, bà Trần Thị Ngọc B giao cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Nguyễn Thị K gồm: Lê Thị Tuyết L, Lê Thị Tuyết H1, Lê Văn H số tiền 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, đã giao nhận xong tại Tòa án.

3.3. Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 01043 ngày 17-12- 1993, do Ủy ban nhân dân huyện T cấp, ông Lê Văn X đứng tên.

3.4. Về chi phí tố tụng khác: Ông H, bà L, bà H1 tự nguyện chịu 1.350.000 (một triệu ba trăm năm mươi nghìn) đồng tiền chi phí đo đạc, định giá; đã nộp xong.

3.5.  Về án phí sơ thẩm:

Ông Lê Văn X, bà Trần Thị Ngọc B phải chịu 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chi cục thi hành án dân sự huyện T hoàn trả cho những người kế thừa quyềnvà nghĩa vụ tố tụng của bà K, do ông Lê Văn H đại diện nhận số tiền 246.000 (hai trăm bốn mươi sáu nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số: 0002040 ngày 01 tháng 6 năm 2006, của Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Về án phí phúc thẩm: Ông Lê Văn H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0009380 ngày 14-11-2017, của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Tây Ninh.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2018/DS-PT ngày 06/04/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:80/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về