Bản án 80/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 80/2017/HSST NGÀY 13/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 9 năm 2017 tại Toà án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2017/HSSTngày 07 tháng 9 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2017/HSST-QĐ ngày 07/9/2017 đối với bị cáo:

ĐẶNG HOÀI N, sinh năm 1994 tại Bình Phước; tên gọi hác: Boy; nơi cư trú: tổ A, ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; con ông Đặng Thành A và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngau 14/7/2017 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Ông Đặng Thành A, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; cùng trú tại: tổ A, ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đặng Hoài Nlà con trai út của ông Đặng Thành A, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964 cùng trú tại tổ A, ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Bình Phước.

Khoảng 13 giờ ngày 14/7/2017, Đặng Hoài Nđi tìm tai nghe điện thoại di động thì phát hiện một cọc tiền mệnh giá 500.000 đồng được quấn trong túi nilon màu đen để tại bàn thờ trong phòng khách của gia đình. N nảy sinh ý định trộm tiền nên rút lấy 5.000.000 đồng trong cọc tiền bỏ vào ví da của mình, số tiền còn lại N để lại vị trí ban đầu. Sau đó N đi chơi và tiêu xài hết 575.000 đồng. Đến 17 giờ cùng ngày N về nhà tiếp tục lấy trộm 4.500.000 đồng rồi thu xếp quần áo và nói với bà Tùng là đi Bình Dương. Nghi ngờ N lấy tiền nên Ông A và bà Tkiểm tra phát hiện bị mất 9.500.000 đồng.

 Về vật chứng: Số tiền 9.500.000 đồng đã bị N tiêu xài hết 575.000 đồng nên Cơ quan điều tra Công an huyện Chơn Thành thu giữ được 8.925.000 đồng và trả cho ông An, bà Tùng. Một ví da màu nâu hiệu Lacoste là tài sản riêng của bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ông A và bà Tđã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về phần dân sự.

Bản cáo trạng số 80/Ctr-VKS ngày 06/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Đặng Hoài Nvề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm h, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33, 45 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 06 đến 08 tháng tù.

Tại phiên tòa: bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo và không có ý kiến gì khác.

Ý kiến của người bị hại: gia đình thực sự rất đau lòng vì hành vi của con mình đã gây ra. Quá trình thăm gặp thì cháu đã nhận ra lỗi sai của mình và ân hận nên kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho cháu sớm đoàn tụ cùng gia đình.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của mình sai trái và rất hối hận. Bị cáo xin lỗi bố mẹ vì đã có hành vi sai trái và mong bố mẹ tha lỗi. Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các lời khai của người bị hại, người làm chứng cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 14/7/2017, Đặng Hoài Nlợi dụng sở hở của ông Đặng Thành A và bà Nguyễn Thị T trong việc quản lý tài sản đã hai lần lén lút chiếm đoạt tổng số tiền là 9.500.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

 Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo hai lần thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản nên thuộc tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít ngiêm trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự. Người bị hại bãi nại cho bị cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trước đây bị cáo đã tham gia nghĩa vụ quân sự; Bị cáo là một trong những lao động chính của gia đình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng: Một ví da màu nâu hiệu Lacoste là tài sản riêng của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Hoài Nphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33, 45 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đặng Hoài N06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/7/2017.

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Trả cho bị cáo Đặng Hoài Nmột ví da màu nâu hiệu Lacoste.

- Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Bị cáo Đặng Hoài Nphải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:80/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về