Bản án 794/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 794/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2019, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 269/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Vỹ T- sinh năm 1986

Thường trú: xã E, huyện C, tỉnh ĐăkLăk (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Mai Trung T1- sinh năm 1984

Địa chỉ: khu phố A, phường L, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời trình bày của bà Lê Thị Vỹ T trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà:

Bà và ông Mai Trung T1 tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2011, có tổ chức hỏi cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh ĐăkLăk. Sau khi kết hôn ông bà chung sống bình thường, đến năm 2012 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do ông T1 không quan tâm, chăm sóc gia đình, ông T1 thường xuyên uống rượu, có lần còn đánh đập bà. Bà đã từng nộp đơn yêu cầu ly hôn nhưng sau đó đã rút đơn để đoàn tụ gia đình nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục xảy ra. Sau nhiều lần hoà giải không có kết quả, tháng 4/2018 bà và con chung đã chuyển về ĐăkLăk cư trú, còn ông T1 cư trú tại khu phố A, phường L, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T1.

Về con chung: có 01 con chung tên Mai Lê Thuỷ T4 sinh ngày 30/7/2012. Bà yêu cầu trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Ông Mai Trung T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và giấy triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt. Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn nên căn cứ Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo kết quả xác minh của Công an phường L, quận Thủ Đức thì ông Mai Trung T1 cư trú tại quận Thủ Đức nên căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông Mai Trung T1 đã được tống đạt hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông T1.

[3] Về hôn nhân: Bà Lê Thị Vỹ T và ông Mai Trung T1 tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau theo giấy chứng nhận kết hôn số D, quyển số 01/2011 do Ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh ĐăkLăk cấp. Do đó, hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật công nhận. Nay bà Lê Thị Vỹ T nộp đơn yêu cầu ly hôn với ông Mai Trung T1, trong quá trình giải quyết vụ án bà T kiên quyết yêu cầu ly hôn.

Xét yêu cầu ly hôn của bà T: Bà T và ông T1 kết hôn hợp pháp, theo bà T trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do ông T1 không quan tâm, chăm sóc gia đình, ông T1 thường xuyên uống rượu, có lần còn đánh đập bà. Ông bà đã không còn chung sống từ tháng 4/2018 đến nay. Qúa trình giải quyến vụ án, Toà án đã tiến hành xác minh tại cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em, theo công văn số 397/LĐTB ngày 27/3/2019 của phòng Lao động- Thương binh và Xã hội quận Thủ Đức cho biết do mâu thuẫn gia đình nên bà T đã đưa cháu Mai Lê Thuỷ T4 về sinh sống tại xã E, huyện C, tỉnh ĐăkLăk. Xét thấy, để duy trì cuộc sống gia đình hạnh phúc thì cả hai vợ chồng cần có sự thương yêu, chia sẻ với nhau, cả hai đều cùng có mong muốn xây dựng gia đình chung sống cùng nhau. Tuy nhiên, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần ông T1 đến Tòa để giải quyết vụ án nhưng ông T1 vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến của ông T1. Trong khi đó, bà T kiên quyết yêu cầu ly hôn. Như vậy, có căn cứ khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T1 đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà T là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Căn cứ vào giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân xã E, huyện C, tỉnh ĐăkLăk cấp có căn cứ xác định bà Lê Thị Vỹ T và ông Mai Trung T1 có con chung tên Mai Lê Thuỷ T4 sinh ngày 30/7/2012. Bà T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu nuôi con chung của bà T: Theo kết quả xác minh tại công văn số 397/LĐTB ngày 27/3/2019 của phòng Lao động- Thương binh và Xã hội quận Thủ Đức, hiện tại bà T đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Mai Lê Thuỷ T4 sinh ngày 30/7/2012. Bà T có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, ông T1 đã được Tòa án thông báo về yêu cầu được nuôi con chung của bà T nhưng không có ý kiến. Từ những lý do trên nên yêu cầu được nuôi dưỡng con chung của bà T sau khi ly hôn là có cơ sở chấp nhận, giao con chung tên Mai Lê Thuỷ T4 sinh ngày 30/7/2012 cho bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà T không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung: Bà T xác định không có.

[6] Về nợ chung: Bà T xác định không có.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị Vỹ T phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Vỹ T được ly hôn với ông Mai Trung T1.

2. Về con chung: Bà Lê Thị Vỹ T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Mai Lê Thuỷ T4 sinh ngày 30/7/2012. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị Vỹ T không yêu cầu ông Mai Trung T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

3.  Về tài sản chung: Bà Lê Thị Vỹ T xác định không có.

4. Về nợ chung: Bà Lê Thị Vỹ T xác định không có.

5.  Về án phí: Bà Lê Thị Vỹ T phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Lê Thị Vỹ T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0023431 ngày 17/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức. Bà Lê Thị Vỹ T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Vỹ T có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Mai Trung T1 có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 794/2019/HNGĐ-ST ngày 15/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:794/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về