Bản án 79/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 79/2021/HSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ LÂM SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn T Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 18/3/1981 tại Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản Đ, xã P, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa (học vấn): 8/12 PT; Con ông: Lường Văn Đ (Đã chết) và bà: Lường Thị A - sinh năm 1934; Bị cáo có vợ: Cà Thị C - sinh năm 1982 và 02 con (lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2001- đã chết); Tiền án: Có 01 tiền án về tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (Tại Bản án số 198/2019/HSST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên) chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Thúy A - sinh năm 1988. Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Trần T - sinh năm 1984. Nơi cư trú: Tổ dân phố X, phường M, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt)

2. Anh Vũ Văn T - sinh năm 1979. Nơi cư trú: Đội Y, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ đầu tháng 11/2020 đến giữa tháng 12/2020 Lường Văn T không có giấy phép khai thác, mua bán lâm sản nhưng đã tự ý thu mua gom 200 bó củi gỗ các loại gồm Não, Ba Soi, Giẻ Trắng, Vối Thuốc với giá 5.000 đồng/01 bó để ở gầm sàn của gia đình mình. Đến ngày 22/12/2020 anh Trần T là cán bộ của Trung đoàn 741 gọi điện thoại cho T đặt vấn đề mua 200 bó củi cho đơn vị với giá 7.000 đồng/01 bó nhưng phải có giấy tờ, hồ sơ cấp phép, T đồng ý rồi hẹn anh T 02 hôm sau sẽ giao củi. Khoảng 18 giờ ngày 23/12/2020 T nhờ chị Lò Thị D và Lò Thị O bốc toàn bộ các bó củi gỗ lên xe ô tô tải biển kiểm soát 27C-021.xx phủ kín bạt che. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 24/12/2020 T một mình điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 27C-021.xx chở củi xuống giao cho anh T, khi đi đến khu vực tổ dân phố Y, phường T, thành phố Đ thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế Công an thành phố Điện Biên Phủ phát hiện, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 83 ngày 31/12/2020 của Hội động định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Củi gỗ gồm Long Não, Ba Soi, Giẻ Trắng, Vối Thuốc thu giữ của Lường Văn T có tổng khối lượng 1.660 kg, trị giá 2.158.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKSTPĐBP ngày 18/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo về tội: Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh trên. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm m khoản 1 Điều 232; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Sung quỹ nhà nước 1.660 kg củi thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận gì về tội danh và điều luật, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề xuất đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Xem xét đến hoàn cảnh gia đình và thái độ thành khẩn, nhận thức pháp luật còn hạn chế của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo do bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Bị cáo không bổ sung gì về phần bào chữa của người bào chữa.

Lời nói sau cùng: bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Trong tháng 11 và 12 năm 2020 mặc dù không được cấp phép cho thu mua củi gỗ nhưng Lường Văn T đã tự ý thu mua 200 bó củi gỗ các loại có tổng khối lượng 1.660 kg trị giá 2.158.000 đồng đem bán để kiếm lời. Năm 2019 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án vào ngày 28/8/2020. Tháng 11/2020 lại tiếp tục có hành vi thu mua củi gỗ như trên. Như vậy, bị cáo đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 232/BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố đôi vơi bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, điều kiện phạm tội:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52/BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý. Đây cũng thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.

Về điều kiện phạm tội: Do nhu cầu của một bộ phận người dân vẫn có nhu cầu sử dụng củi gỗ làm chất đốt trong sinh hoạt và một số người dân vẫn khai thác củi gỗ trái phép nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện tội phạm.

Do đó, hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo. Vì hình phạt cải tạo ngoài xã hội không có tác dụng răn đe đối với bị cáo. Tuy nhiên do khối lượng củi gỗ thu giữ của bị cáo không lớn, đã bị tịch thu ngăn chặn kịp thời. Đồng thời xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo nên Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, cho bị cáo có cơ hội sớm trở về với gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo không tranh luận với mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Đề nghị cho bị cáo hưởng mức thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 4 Điều 232/BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản gì có giá trị nên không có khả năng thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát 27C-021.xx nhãn hiệu THACO. Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ đã trả lại các tài sản cho chủ sở hữu là anh Vũ Văn T. Việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với 1.660kg củi gỗ gồm Não, Ba Soi, Giẻ Trắng, Vối Thuốc thu giữ của bị cáo. Đây là vật chứng của vụ án cần tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật.

[5]. Các vấn đề khác:

Đối với những người bốc củi hộ bị cáo, chị Cà Thị C là vợ bị cáo không biết việc bị cáo mua củi về bán và những người bán củi cho bị cáo (bị cáo không quen biết). Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với anh Trần T là người đặt vấn đề mua củi, nhưng không biết bị cáo mua củi không có giấy phép nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với anh Vũ Văn T là chủ sở hữu chiếc xe ô tô BKS 27C-021.79, người cho bị cáo thuê xe. Không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với chiếc điện thoại bị cáo sử dụng liên lạc với anh Trung trong việc mua bán củi gỗ do bị cáo đã làm rơi mất nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, người bào chữa. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, người bào chữa đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên do bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa xin miễn án phí nên căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Hội đồng xét xử chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội " Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản".

Áp dụng điểm m khoản 1 Điều 232; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lường Văn T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 1.660 kg củi gỗ Não, Ba Soi, Giẻ Trắng, Vối Thuốc.

(Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án Điện Biên Phủ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/3/2021)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/4/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản

Số hiệu:79/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về