Bản án 79/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 79/2020/HS-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2020đối với bị cáo:

Bùi Đình M, sinh ngày 22/12/1971 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Thôn L, xã Đ, huyện A, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đình M1 (đã chết) và bà Phạm Thị Đ; bị cáo có vợ là là Bùi Thị Ng và có 01 con; tiền án: Tại Bản án số 162/2013/HSST ngày 27/9/2013, Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; tại Bản án số 12/2017/HSST ngày 07/3/2017, Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” (Chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 66 ngày 28/10/1993, Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; tại Bản án số 72/2007/HSST ngày 05/12/2007, Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” (Đã được xoá án tích); bị bắt tạm giữ ngày 16/4/2020; tạm giam ngày 17/4/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 35 phút, ngày 16/4/2020 Công an phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng bắt quả tang Bùi Đình M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý tại khu vực trước cửa số nhà 348 đường Lê Lợi, phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, thu trong lòng bàn tay trái của Bùi Đình M 01 gói nilon kích thước 01x02 cm là ma túy. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra Bùi Đình M, khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 13 giờ ngày 16/4/2020, Bùi Đình M một mình đi bộ đến đường tàu phường Cầu Đất, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. M gặp và mua của 1 người đàn ông không quen biết được 01 gói nilon có kích thước 01x02 cm là ma túy Heroine với giá 200.000 đồng. Mua được ma túy, Bùi Đình M đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến số nhà 348 đường Lê Lợi, phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt quả tang niêm phong vật chứng.

Kết luận giám định số 230/KLGĐ ngày 17/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,08 gam, là loại Heroin”.

Tại Bản Cáo trạng số 69/CT-VKS ngày 27/7/2020 Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Bùi Đình M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Bùi Đình M khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với khối lượng 0,08 gam là loại Heroin”.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Đình M với mức án từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong số 196/2020/PC09 là ma túy và vỏ bao, chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, tạo điều kiện để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đình M không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận của bị cáo Bùi Đình M tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, khẳng định: Khoảng 13 giờ 35 phút, ngày 16/4/2020 Công an phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng bắt quả tang Bùi Đình M có hành vi cất giấu bất hợp pháp chất ma túy tại trước cửa số nhà 348 đường Lê Lợi, phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, việc cất giữ chất ma túy không nhằm mục đích mua bán mà tìm nơi sử dụng cho bản thân với tổng khối lượng: “0,08 gam, là loại Heroin”. Nhưng do bị cáo có 02 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là yếu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố đối với bị cáo Bùi Đình M về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân bị cáo:

[5] Bị cáo có 02 tiền án năm 1993, 2007 tuy đã được xóa án nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Ngoài hình phạt chính, bị cáo Bùi Đình M còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về việc xử lý vật chứng:

[8] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong số 196/2020/PC09 là ma túy còn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng.

[9] Trong vụ án này, đối với người đàn ông bán ma túy cho Bùi Đình M, hiện chưa xác minh được lai lịch địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ xử lý sau.

- Về án phí:

[10] Bị cáo Bùi Đình M phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[11] Bị cáo Bùi Đình M được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Đình M 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/4/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong số196/2020/PC09 là ma túy còn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Đình M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Bùi Đình M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HS-ST ngày 26/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về