Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 29/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 79/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện C mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 220/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/10/2019 giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1980; Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/8/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông B tự nguyện tìm hiểu rồi chung sống với nhau năm 2001, không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẩn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay vợ chồng không còn tình cảm, không thể hàn gắn nên bà H cầu ly hôn với ông B.

- Về con chung: Bà H xác định trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 người con tên là Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/12/2003 và Nguyễn Công S, sinh ngày 09/10/2012. Hiện tại hai con đang sống chung với bà H. Bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con, không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà H xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Văn B để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà H cũng như tham gia các phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh B không nộp bản tự khai cho Tòa án, cố tình trốn tránh, vắng mặt không rỏ lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đúng tư cách tham gia tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiến hành thu thập chứng cứ đúng trình tự, thủ tục. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự; tuy nhiên bị đơn vi phạm những quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt tại phiên tòa không lý do mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông B là đúng quy định. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 14, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn B do vi phạm Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Về con chung, đề nghị Hội đồng xét xử giao hai cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/12/2003 và Nguyễn Công S, sinh ngày 09/10/2012 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ông B không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, về nợ chung bà H xác định vợ chồng không thiếu nợ ai và không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của ông B không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông B.

Nguyên đơn bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông B và có yêu cầu nuôi con, ông B có nơi cư trú tại ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.

Do Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ nên đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định tại Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Bà H và ông B bắt đầu chung sống với nhau từ năm 2001, ông bà chung sống là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn, quá trình chung sống ông, bà không đến Ủy ban nhân dân có thẩm quyền để đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 của Luật hôn nhân và Gia đình nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng. Nay ông, bà xãy ra mâu thuẩn nên bà H xin ly hôn. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông B.

[2.2] Về con chung: Theo lời trình bày của bà H và theo giấy khai sinh bà cung cấp trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định trong thời gian chung sống bà H và ông B có 02 người con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/12/2003 và Nguyễn Công S, sinh ngày 09/10/2012; hai con hiện đang sống chung với bà H. Xét thấy từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu T và cháu S sống chung với bà H, cuộc sống của hai cháu được đảm bảo, có chính quyền địa phương xác nhận nên bà H đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng hai con. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81 (Quy định về việc trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn) của Luật hôn nhân và gia đình 2014, giao hai cháu Nguyễn Văn T và Nguyễn Công S cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng; điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu T và cháu S. Ông B được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

 [2.3] Về cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn: Bà H là người trực tiếp nuôi con, bà không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. (Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiệp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật).

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung:

Về tài sản chung: Bà H xác định tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

Về nợ chung: Bà H xác định trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không thiếu nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ, bà Trần Thị H chịu toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điêu 9, Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1 - Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thị H và ông Nguyễn Văn B.

2 - Về con chung: Giao hai cháu Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/12/2003 và Nguyễn Công S, sinh ngày 09/10/2012 cho bà Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không có yêu cầu (Trường trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con). Ông B được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3 - Về tài sản chung và nợ chung:

Về tài sản chung: Bà H xác định tài sản chung tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà H xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4 - Án phí sơ thẩm: Án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm bà Trần Thị H chịu 300.000đ, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0006194 ngày 11/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C.

5 - Nguyên đơn bà Trần Thị H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/11/2019). Bị đơn ông Nguyễn Văn B vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

437
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2020/HNGĐ-ST ngày 29/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:79/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về