TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 79/2019/HS-PT NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 25/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Trương Công D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 14 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo: Trương Công D (tên gọi khác: Không); Sinh ngày: 09.7.1978; Nơi ĐKHKTT: Khu TA, thị trấn AN, huyện ĐL, tỉnh QN; Chỗ ở: Thôn 3 CB, xã ĐT, thị xã ĐB, tỉnh QN; Nghề nghiệp: Nhạc công; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Công K và bà Nguyễn Thị L, có vợ là Trần Thị Tr và 03 con (con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2010); Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 10/10/2018 đến ngày 17/12/2018 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương Công D và bà Lê Uyên T có quan hệ tình cảm với nhau. Ngày 06/10/2018, Trương Công D sử dụng điện thoại Iphone X Max của mình chụp hình ảnh khỏa thân của bà T. Ngày 07/10/2018, D nhắn tin yêu cầu T phải đưa cho D số tiền 10.000.000 đồng, nếu không D sẽ in các hình ảnh khỏa thân của bà T đem dán trước cổng trường nơi bà T làm việc. Đến ngày 10/10/2018, Trương Công D tiếp tục nhắn tin yêu cầu bà T phải đưa tiền. Lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của mình nên bà T đã đồng ý đưa tiền và hẹn Trương Công D đến quán cà phê PM, thuộc thôn BC, xã HC, huyện HV, thành phố ĐN. Vào lúc 08 giờ 25 phút, ngày 10/10/2018, khi Trương Công D đang nhận của bà T số tiền 7.000.000 đồng thì bị lực lượng Công an huyện HV bắt quả tang.
Tang tài vật tạm giữ: Số tiền: 7.000.000đ (Bảy triệu đồng); 01 ĐTDĐ hiệu Iphone X Max, màu vàng, số IMEI:357328903430514, gắn sim số 0905.018.885; 01 xe mô tô hiệu Honda SH, biển kiểm soát 43D1-023.24 và một số tài sản, giấy tờ khác.
Xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện HV đã trả lại cho bà Lê Uyên T số tiền 7.000.000 đồng; các tài sản khác đang tạm giữ.
Về trách nhiệm dân sự: Trương Công D đã tác động gia đình bồi thường cho bà Lê Uyên T số tiền 17.000.000 đồng, gồm tiền trả nợ 10.000.000 đồng D đã mượn trước đó và bồi thường tổn thất tinh thần 7.000.000 đồng; bà T có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho Trương Công D.
Tại Bản án sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện HV, thành phố ĐN đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 170, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Trương Công D 9 (chín) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ 2 (hai) tháng 9 (chín) ngày bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 10/10/2018 đến ngày 17/12/2018).
Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 29/01/2019, bị cáo Trương Công D kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo được hưởng án treo vì: Hoàn cảnh gia đình bị cáo là khó khăn, bị cáo là lao động chính, hiện đang nuôi con nhỏ, cha mẹ già yếu, cần có người chăm sóc.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố ĐN có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Công D có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng: Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện HV đã xét xử bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo với mức án 09 tháng tù là có căn cứ, phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ y án sơ thẩm.
Bị cáo Trương Công D vẫn giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xem xét cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trương Công D khai nhận: Bị cáo và bà Lê Uyên T có quan hệ tình cảm và bị cáo có chụp một số hình ảnh khỏa thân của bà T. Ngày 07/10/2018, bị cáo nhắn tin yêu cầu bà T phải đưa cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng nếu không sẽ in các hình ảnh khỏa thân của bà T đem dán trước cổng trường nơi bà T làm việc. Lo sợ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của mình nên bà T đã đồng ý đưa tiền. Vào lúc 08 giờ 25 phút, ngày 10/10/2018 tại quán cà phê PM, thuộc thôn BC, xã HC, huyện HV, thành phố ĐN khi bị cáo đang nhận của bà T số tiền 7.000.000 đồng thì bị lực lượng Công an huyện HV bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện HV đã xét xử bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Trương Công D thì thấy: Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn vi phạm các giá trị về chuẩn mực đạo đức và thuần phong mỹ tục. Bản án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù (dưới mức khởi điểm của khung hình phạt) là nhẹ. Đối với bị cáo cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục và răn đe làm gương cho người khác. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuy nhiên, thực tế bị cáo chỉ bị tạm giữ, tạm giam 02 tháng 08 ngày (từ ngày 10.10.2018 đến ngày 17.12.2018) nhưng trong phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tính trừ thời gian tạm giữ, tạm giam cho bị cáo là 02 tháng 09 ngày là chưa chính xác nên Hội đồng xét xử sẽ điều chỉnh lại cho đúng quy định của pháp luật.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Công D, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Trương Công D 09 (chín) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ, tam giam là 02 (hai) tháng 08 (tám) ngày (Từ ngày 10/10/2018 đến ngày 17/12/2018). Còn lại 06 (sáu) tháng 22 (hai mươi hai) ngày tù bị cáo phải chấp hành tiếp. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3. Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Trương Công D phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 79/2019/HS-PT ngày 09/04/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 79/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về