Bản án 79/2019/HS-PT ngày 06/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 79/2019/HS-PT NGÀY 06/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ chí Minh. xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 360/2018/HSPT ngày 27/6/2018, đối với bị cáo Đỗ Quy S đã kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số: 164/2018/HS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh..

Bị cáo kháng cáo: Bị cáo Đỗ Quy S, sinh năm 1974; tại Thành phố Hồ chí Minh.. Nơi cư trú: đường A, phường X, quận Y, Thành phố Hồ chí Minh.; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Buôn bán; giới tính: N2; quốc tịch: Việt N2; tôn giáo: Không; con ông Đỗ Văn N (chết) và bà Tô Ánh N1 (chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2014; tiền án: Bản án số 49/HSST ngày 22/3/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh K1 Giang xử phạt bị cáo 18 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chấp hành xong hình phạt ngày 30/11/2011, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt ngày 05/10/2016 (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo:

Luật sư Lê Thanh S1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ chí Minh (có mặt).

Luật sư Nguyễn Đình Thái H thuộc đoàn luật sư Thành phố Đà Nẵng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/10/2016, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an Tp. Hồ Chí Minh bắt quả tang Lê Thị Huyền T1, về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ của T1 100 viên nén hình tròn màu xanh, qua giám định là ma túy ở thể rắn khối lượng 30,2460gram, loại MDMA. Khám xét khẩn cấp nơi ở của T1 tại đường T, phường X1, quận Y1, Tp. Hồ Chí Minh, thu giữ 03 bịch nylon chứa chất tinh thể không màu và màu trắng, qua giám định là ma túy ở thể rắn khối lượng 2,3594gram, loại Methamphetamine; 01 bịch nylon chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,0811gram, loại heroin; 04 bịch nylon chứa chất bột màu trắng và vàng, 08 viên nén tròn màu đỏ, qua giám định không chứa thành phần các chất ma túy thường gặp; một bình hút ma túy.

Ngày 05/10/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Tp. Hồ Chí Minh bắt khẩn cấp Đỗ Quy S về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ tại phòng 508 khách sạn T đường N, phường X2, quận Y2, Tp. Hồ Chí Minh 44 gói chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy ở thể rắn khối lượng 1.015,4894 gram loại Ketamine, MDMA và MA; 2.834 viên nén tròn màu vàng và màu xanh, qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 844.8812211gram, loại MDMA, MA và Ketamine và chất tinh thể màu trắng để trên một đĩa bằng sứ kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 92,0874 gram loại Ketamine, 05 gói nylon chứa chất bột màu trắng, màu nâu trong kết quả giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp, Lá cây khô trong một gói nylon qua giám định là cần sa, khối lượng 12,1022gram.

Toàn bộ số ma túy thu giữ của K, H1, S, N2, T2 và T1 đã được giám định tại các Bản Kết luận giám định số 1475/KLGĐ-H ngày 8/8/2016; 1458/KLGĐ-H, 1459/KLGĐ-H ngày 18/8/2016; 1460/KLGĐ-H ngày 30/8/2016; 812,813,814,815/KLGĐ-H ngày 28/11/2016 và Công văn giải thích từ ngữ trong Kết luận giám định số 656/PC54-Đ6 ngày 21/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Tp. Hồ Chí Minh.

2. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị can bị can Đỗ Quy S và Lê Thị Huyền T1:

- Đỗ Quy S khai: Từ tháng 9/2016, S bắt đầu mua bán ma túy, nguồn ma túy S mua của B (không rõ lai lịch, địa chỉ) để bán lại kiếm lời. Cụ thể, lần 1 S mua 10 gam ma túy đá giá 4.500 ngàn đồng bán lẻ cho người nghiện không rõ lai lịch được 6.000.000đ. Lần 2 cuối tháng 9/2016 S mua của B 100 viên thuốc lắc giá 160.000 ngàn đồng 1/viên, (loại MA) với giá khoảng 900 ngàn đồng và 1 bịch heroin, khối lượng 0,0811g (do B cho). Số ma túy mua của B, S mang đến cất giấu tại nơi ở của Lê Thị Huyền T1 (bạn gái của S) ở chung cư T phường X2, quận Y2, Tp. Hồ Chí Minh để sử dụng và nếu có ai mua thì bán lại. Ngày 04/10/2016 S đưa 100 viên thuốc lắc, khối lượng 30,2460g, loại MDMA cho T1 để bán cho Nguyễn Hoài N2 và lấy 16.500.000 đồng về cho S, nhưng T1 chưa kip giao cho N2 thì bị bắt, Công an khám xét nơi ở của T1 thu giữ số ma túy của S như đã nêu trên.

Riêng số ma túy thu giữ tại phòng 508, khách sạn T có khối lượng 1.952,459g loại MDMA, MA và Ketamine (gồm 555,1062gram Ketamine, 772,4721 gram MDMA, 624,8796gram MA, 12,1022 gram là cây khô cần sa) S khai không phải của S, S không thuê phòng 508, chỉ thuê phòng 505 khách sạn T từ tháng 7/2016 đến khi bị bắt và do quen biết với chủ khách sạn và thuê phòng ở thời gian dài (gần 3 tháng) nên không thu giấy tờ tùy thân của S khi thuê phòng (bút lục 482-498).

Mặc dù S không thừa nhận số ma túy thu giữ ở phòng 508 khách sạn T có khối lượng1.952,4579g loại MDMA, MA và Ketamine, 12,1022g là cây khô là Cần sa. Tuy nhiên, căn cứ lời khai ông Nguyễn Trần T3 (chủ khách sạn T) và chị Lê Thị Hồng L (nhân viên khách sạn T) thì phòng 505 và 508 khách sạn T là do S đứng ra thuê từ tháng 8/2016 cho đến ngày 05/10/2016. Trong thời gian S ở phòng 508, có Lê Thị Huyền T1 (bạn gái của S) và Hà Xuân T4 (bạn của S) đã đến phòng 508 khách sạn T để gặp S và sử dụng ma túy với S tại đây cùng các chứng cứ khác đã thu thập được tại các bút lục số 502-512; 515-528. Do đó, đã có đủ cơ sở buộc S phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy thu giữ tại phòng 508 khách sạn T có khối lượng 1.952,4579g loại MDMA, MA và Ketamine, 100 viên thuốc lắc (khối lượng 30,2460gram MDMA) đã giao cho Lê Thị Huyền T1 đi bán, cùng với số ma túy của S cất giấu tại nơi ở của T1 gồm 2,3594 gram Methammine; 0,811gram heroin.

- Lê Thị Huyền T1 thừa nhận lời khai của S là đúng, S là bạn trai của T1, ngày 04/10/2016 S đưa 100 viên thuốc lắc để bán cho N2, nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang và số ma túy thu giữ nơi ở của T1 là của S mang đến cất giấu để sử dụng và bán như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

Thu của Đỗ Quy S: 01 thùng niêm phong ghi số 1814 bên ngoài có chữ kí của giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 01 thùng niêm phong ghi số 1815 bên ngoài có chữ kí của giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- 02 điện thoại di động, 01 máy tính xách tay; 01 xe mô tô biển số 59T1 01800, số khung 281100 và số máy 281102 do Phạm Trung T5 đứng tên sở hữu.

Qua xác minh được biết T5 không còn cư ngụ tại địa phương. Đỗ Quy S khai không biết xe này của ai. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả.

- 01 xe mô tô biển số 59H1 67657, số khung 208487 và số máy 1019461 do Đỗ Quy S đứng tên chủ sở hữu và sử dụng xe này để mua bán ma túy.

- 237.000.000đ (đã nộp kho bạc nhà nước quận Y3, Tp. Hồ Chí Minh) thu tại phòng 508 khách sạn T, S khai không phải tiền của S và không biết nguồn gốc số tiền này.

- 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Tâm K1, K1 khai bị mất giấy chứng minh vào năm 2013, sau đó đã làm lại giấy chứng minh nhân dân mới để sử dụng.

- 04 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lương Duy T6, Trần Văn H1, Nguyễn Hoàng V, Nguyễn Lê Bảo T7 hiện tất cả không còn cư ngụ tại địa phương và không xác định được nơi ở mới để tiến hành lấy lời khai về nguồn gốc các giấy chứng minh nhân dân này (bút lục 653-661). Toàn bộ các chứng minh nhân dân nêu trên, thu giữ tại phòng 508 khách sạn T, Đỗ Quy S không thừa nhận là của S.

Thu của Lê Thị Huyền T1: 01 gói niêm phong ghi số 1812 bên ngoài có chữ kí của giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau giám định. 03 gói niêm phong ghi số 1813 bên ngoài có chữ kí của giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau giám định 01 điện thoại di động, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 hộp giấy.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số:164/2018/HS-ST ngày 17/5/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Đỗ Quy S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điểm h Khoản 4, Khoản 5 Điều 194; Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009;

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Quy S tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2016. Buộc bị cáo Đỗ Quy S nộp phạt số tiền: 50 (Năm mươi) triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án, xử lý vật chứng, hình phạt bổ sung, án phí… và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/5/2018 bị cáo Đỗ Quy S kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm xét xử là oan sai, không đúng người, đúng tội.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về vụ án như sau: Bị cáo thừa nhận đưa cho T1 100 viên ma túy nhằm bán cho Nguyễn Hoài N2, Cơ quan điều tra bắt và thu giữ của T1 100 viên ma túy. Bị cáo không thừa nhận số ma túy thu giữ tại căn phòng 508 của khách sạn T là của bị cáo, vì bị cáo không thuê, không sử dụng căn phòng này; tuy nhiên, đối chiếu với lời khai ban đầu của chủ khách sạn, lời khai của nhân viên khách sạn và biên bản nhận dạng của họ, cũng như lời khai của Hà Xuân T4, Lê Thị Huyền T1 là những người bạn cùng chơi ma túy chung, có đủ căn cứ để xác định căn phòng số 508 của khách sạn T là do bị cáo sử dụng; từ lời khai của những người có liên quan trên Cơ quan điều tra đã kiểm tra thu giữ tiền và ma túy tại căn phòng 508 của khách sạn T của bị cáo là hoàn toàn có căn cứ. Cơ quan điều tra thu giữ các vật chứng khác như xe mô tô không phải của bị cáo, không có liên quan nhưng không phải là căn cứ để cho rằng bị cáo không sử dụng căn phòng 508 của khách sạn T, nên đề nghị bác đơn kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo cho rằng căn phòng 508 của khách sạn T, bị cáo không thuê, không sử dụng, không biết của ai nhưng kết tội cho bị cáo là oan sai.

Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng lượng ma túy thu giữ tại căn phòng 508 của khách sạn T, cho rằng của bị cáo là chưa đủ căn cứ. Vì theo lời khai của ông T3 chủ khách sạn và bà L là nhân viên của khách sạn không thuê, không sử dụng căn phòng 508 của khách sạn T nhưng cơ quan điều tra chưa cho đối chất;

việc thu giữ các tài sản không phải của bị cáo nhưng lại kết luận của bị cáo là không có căn cứ, nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Quy S đúng quy định của pháp luật, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Quy S cho rằng bản án sơ thẩm xét xử bị cáo là oan sai, không đúng người, đúng tội thì thấy rằng:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đỗ Quy S đã thừa nhận vào ngày 04/10/2016, bị cáo Đỗ Quy S đã giao cho bạn gái là Lê Thị Huyền T1 100 viên thuốc lắc để bán cho Nguyễn Hoài N2 và lấy 16.000.000 đồng về giao lại cho bị cáo Đỗ Quy S, Lê Thị Huyền T1 chưa kịp giao cho Nguyễn Hoài N2 thì bị bắt quả tang và qua khám xét nơi ở của Lê Thị Huyền T1 đã thu giữ số ma túy trên. Kết quả giám định có khối lượng ma túy là 32,6054 gram loại MA; xét thấy lời khai của bị cáo Đỗ Quy S phù hợp với lời khai của Lê Thị Huyền T1 và Nguyễn Hoài N2 tại cơ quan điều tra. Vì vậy, khối lượng ma túy là 32,6054 gram loại MA, bị cáo Đỗ Quy S giao cho Lê Thị Huyền T1 để bán là có căn cứ.

[2]. Sau khi bắt khẩn cấp bị cáo Đỗ Quy S, ngày 05/10/2016 kiểm tra nơi ở của bị cáo Đỗ Quy S tại phòng 505, 508 khách sạn T đường N, Phường X2, Quận Y2, Thành phố Hồ chí Minh, đã thu giữ vật chứng tại phòng 508. Kết quả giám định của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ chí Minh ngày 28/11/2016 có khối lượng ma túy là 1.952,4534 gram loại MA, MDMA, loại Ketamine và 12,1027 gram lá cây khô cần sa (bl: 639-642). Bị cáo Đỗ Quy S cho rằng bị cáo không thuê, không sử dụng phòng 508 khách sạn T số 6 đường Nguyễn Biểu, Phường 1, Quận 5, Thành phố Hồ chí Minh, nên khối lượng ma túy thu giữ tại phòng 508 không phải của bị cáo Đỗ Quy S. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã dựa vào các tài liệu cơ quan điều tra đã thu thập, đúng theo quy định của pháp luật như:

[2.1]. Căn cứ vào lời khai của Hà Xuân T4 là bạn của bị cáo Đỗ Quy S xác định: “ Hà Xuân T4 đến khách sạn T gặp bị cáo Đỗ Quy S nhiều lần, có khi gặp tại phòng 505, có khi gặp tại Phòng 508 của khách sạn T để sử dụng ma túy với bị cáo Đỗ Quy S và bạn gái của bị cáo tên là Lê Thị Huyền T1 tại phòng 508”; biên bản nhận dạng của Hà Xuân T4 xác định đúng bị cáo Đỗ Quy S và bạn gái của bị cáo là Lê Thị Huyền T1 (bl: 506, 507, 508, 510, 511).

[2.2]. Căn cứ lời khai của Lê Thị Huyền T1 là bạn gái của bị cáo Đỗ Quy S xác định: “Bị cáo Đỗ Quy S là bạn trai và thường sử dụng ma túy tại nơi ở của Lê Thị Huyền T1 và tại phòng 508 khách sạn T do bị cáo Đỗ Quy S thuê để ở (bl: 595, 596, 605) và Lê Thị Huyền T1 còn đến phòng 508 để sử dụng thuốc lắc với bị cáo Đỗ Quy S, lúc đó có Hà Xuân T4 đến chơi (bl: 598); tại phiên tòa sơ thẩm, Lê Thị Huyền T1 còn khai nhận đã nhiều lần cùng bị cáo Đỗ Quy S lên phòng 508 của khách sạn T để sử dụng ma túy.

[2.3]. Căn cứ lời khai của Nguyễn Hoàng N2 là người trực tiếp giao dịch mua bán 100 viên thuốc lắc với bị cáo Đỗ Quy S tại phòng 508 khách sạn T (bl: 460, 467, 469).

[2.4]. Đối chiếu lời khai của các đối tượng có liên quan trong vụ án trên, phù hợp với lời khai của nhân chứng bà Lê Thị Hồng L là nhân viên khách sạn T; biên bản nhận dạng của bà Lê Thị Hồng L đã xác định bị cáo Đỗ Quy S là người thuê và sử dụng phòng 508 của khách sạn T từ tháng 8/2016 đến ngày 05/10/2016 (bl: 516, 517, 519, 520). Đồng thời, cũng qua lời khai của các đối tượng có liên quan Nguyễn Hoàng N2, Lê Thị Huyền T1, Hà Xuân T4 cơ quan điều tra đã khám xét nơi ở của bị cáo Đỗ Quy S tại phòng 508 khách sạn T địa chỉ đường N, Phường X2, Quận Y2, Thành phố Hồ chí Minh, qua đó đã thu giữ lượng ma túy trên và tiền mặt là 230.000.000 đồng.

[3]. Mặc dù, tại phiên tòa sơ thẩm ông Nguyễn Trần T3 là chủ khách sạn T, thay đổi lời khai cho rằng căn phòng 508 của khách sạn cho ông Nguyễn Văn T8 thuê, nhưng qua điều tra ông Nguyễn Văn T8 chưa bao giờ thuê khách sạn T, nên việc thay đổi lời khai của ông Nguyễn Trần T3 không có căn cứ chấp nhận. Từ những tài liệu, vật chứng cơ quan điều tra thu giữ, cấp sơ thẩm xác định khối lượng ma túy 32,6054 gram loại MA bị cáo giao cho Lê Thị Huyền T1 và thu giữ 1.952,4534 gram loại MA, MDMA, loại Ketamine và 12,1027 gram lá cây khô cần sa thu tại căn phòng 508 của khách sạn T là của bị cáo Đỗ Quy S và tuyên xử bị cáo Đỗ Quy S phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Đỗ Quy S tù chung thân là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đỗ Quy S cho rằng khi Cơ quan điều tra khám xét căn phòng 508 của khách sạn T, đã cho bị cáo mặc quần áo thu giữ tại căn phòng nhưng không có quần áo nào vừa và tiến hành lấy vân tay để giám định, đến nay chưa có kết quả nhưng kết tội cho bị cáo là oan. Tuy nhiên, theo hồ sơ Cơ quan điều tra không thực hiện nội dung này, nên việc trình bày của bị cáo Đỗ Quy S là không có căn cứ. Hơn nữa, Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Cơ quan điều tra chưa cho đối chất giữa bị cáo và những người có liên quan, cung cấp thông tin để buộc tội bị cáo, nhưng cấp sơ thẩm xét thấy lời khai của họ thống nhất, phù hợp với vật chứng Cơ quan điều tra đã thu giữ, nên không cần thiết phải trả hồ sơ cho đối chất là phù hợp với quy định của pháp luật. Luật sư bào chữa cho bị cáo còn cho rằng bị cáo không có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh bị cáo không sử dụng căn phòng 508 của khách sạn T và có liên quan lượng ma túy 1.985,0588 gram loại MA, MDMA, loại Ketamine và 12,1027 gram lá cây khô cần sa đã thu giữ là hoàn toàn không có căn cứ chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ chí Minh, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là đúng tội, không oan sai. Bị cáo Đỗ Quy S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Quy S; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Quy S phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Quy S tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2016.

Buộc bị cáo Đỗ Quy S nộp phạt số tiền 50 (Năm mươi) triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đỗ Quy S nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 06 tháng 3 năm 2019

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

531
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HS-PT ngày 06/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về