Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 79/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 214/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 111/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trương Hoàng Đ, sinh năm 1994.

2. Bị đơn: Chị Lương Thị T, sinh năm 1996.

Cùng địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án anh Trương Hoàng Đ trình bày như sau:

Anh và chị Lương Thị T cưới nhau vào năm 2013, hôn nhân tự nguyện được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương và thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang vào ngày 22/7/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị T có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân cho đến nay và nay xin được ly hôn với chị T.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 01 người con chung là Trương Hoàng P, sinh ngày 06/01/2013 hiện đang sống với anh. Từ khi vợ chồng ly thân, chị T không đến thăm con cũng như trợ cấp về tài chính để nuôi con chung. Khi ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Anh Đ xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn chị Lương Thị T vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của anh Đ.

Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm có: Đơn khởi kiện ngày 22/5/2019 (Bản gốc); giấy chứng nhận kết hôn số 98/2014 ngày 22/7/2014 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện A, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản chính); giấy khai khai sinh số 211/2014 ngày 04/8/2014 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện U, tỉnh Kiên Giang cấp (Bản sao); giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản photo); giấy chứng nhận tập huấn nghiệp vụ lái xe kinh doanh vận tải số KG000691 ngày 08/02/2017 do Hiệp hội vận tải Kiên Giang cấp (Bản photo); đơn xin xác nhận nơi cư trú ngày 07/9/2019 (Bản gốc); bản tự khai ngày 20/8/2019 (Bản gốc); biên bản xác minh ngày 22/7/2019 và ngày 20/8/2019 (Bản gốc).

Kết quả xác minh từ chính quyền địa phương cho biết: Từ đầu năm 2018 vợ chồng anh Đ và chị T phát sinh mâu thuẫn, chị T bỏ nhà đi và anh chị đã ly thân cho đến nay.

Tại phiên tòa:

Anh Đ tiếp tục xin ly hôn với chị T, yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con; chị T vắng mặt nên không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; riêng đối với bị đơn vắng mặt không có lý do đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trương Hoàng Đ; Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho anh Đ ly hôn với chị T; Về con chung: Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung cho anh Đ nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện việc anh Đ không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nợ chung: Không có nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Anh Đ khởi kiện xin ly hôn với chị T và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”.

[3] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho chị Lương Thị T theo quy định của pháp luật nhưng anh vẫn vắn mặt không có lý do. Nguyên đơn chị anh Trương Hoàng Đ yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn chị Lương Thị T. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất quyết định xét xử vắng mặt chị T.

[4] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Trương Hoàng Đ đối với chị Lương Thị T. Hội đồng xét xử thấy, hôn nhân giữa anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được Ủy ban nhân dân xã Hưng Yên, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 98/2014 ngày 22/7/2014 nên xác định hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị T vẫn vắng mặt không lý do, cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện anh Đ. Qua lời trình bày của anh Đ cũng như kết quả xác minh từ địa phương cho thấy anh chị cưới nhau năm 2013, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hưng Yên, tỉnh Kiên Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị T có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân cho đến nay.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên hòa giải để hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ nhưng chị T vắng mặt không lý do, không thể hiện thiện ý chí hàn gắn hôn nhân. Hơn nữa, anh chị đã ly thân trong thời gian dài đến nay không ai muốn hàn gắn hôn nhân, do đó có sơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của anh Đ cho anh Đ được ly hôn với chị T.

Về con chung: Anh Đ xác định có 01 người con chung tên Trương Hoàng P, sinh ngày 06/01/2013 hiện đang sống cùng với anh.

Xét thấy, trong thời gian vợ chồng ly thân chị T không có tới lui thăm con, không hỗ trợ về vật chất để anh Đ nuôi con chung. Anh Đ có đủ điều kiện về kinh tế (anh Đ có công việc và thu nhập ổn định) để đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và hiện nay cháu được cho đi học và đang phát triển bình thường. Do đó, trong thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao các cháu Phúc cho anh Đ tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Đ có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi con chung, nên ghi nhận sự tự nguyện của anh Đ về việc không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Đ xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc anh Đ là nguyên đơn chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

[6] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận như nêu ở phần nhận định trên.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, Điều 56 và Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Trương Hoàng Đ đối với bị đơn chị Lương Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Trương Hoàng Đ và chị Lương Thị T.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Hoàng P, sinh ngày 06/01/2013 cho anh Trương Hoàng Đ tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

3. Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Trương Hoàng Đ về việc không yêu cầu chị Lương Thị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Anh Trương Hoàng Đ xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Anh Trương Hoàng Đ có nghĩa vụ nộp toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001944 ngày 12/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, vậy anh Đ đã nộp đủ tiền án phí.

6. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai, có mặt nguyên đơn anh Trương Hoàng Đ có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 28/11/2019). Bị đơn chị Lương Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:79/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về