Bản án 79/2019/DS-ST ngày 02/10/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 79/2019/DS-ST NGÀY 02/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 46/2020/TLST-DS ngày 17 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐXXST-DS, ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam; Địa chỉ trụ sở chính: Số 18 Trần Hữu Dục, khu đô thị Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội

1.1. Người đại diện theo pháp luật: ông Trịnh Ngọc Khánh - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên

1.2. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Trần Nhật Linh - Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam- chi nhánh huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt) Địa chỉ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam- chi nhánh huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang: Khu phố 3, thị trấn Giồng Riềng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1969

2.2. Bà Cao Thị Cẩm V, sinh năm: 1975 Cùng địa chỉ cư trú: Ấp Thạnh Quới, xã Thạnh Phước, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Chị Nguyễn Thị Thúy D, sinh năm: 1997; địa chỉ cư trú: Ấp Thạnh Quới, xã Thạnh Phước, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang

3.2. Anh Nguyễn Cao Tr, sinh ngày: 23/7/2007; địa chỉ cư trú: Ấp Thạnh Quới, xã Thạnh Phước, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang Người đại diện theo pháp luật của anh Trlà Ông Nguyễn Văn Q là cha của anh Trí.

(Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30/6/2019, quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là anh Dương Trần Nhật Linh trình bày:

Vào ngày 07/5/2018 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam Việt Nam (Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam) đã ký một hợp đồng tín dụng số 7705LAV201801006 với vợ chồng Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V. Hợp đồng thỏa thuận như sau:

Số tiền vay gốc là 840.000.000 đồng (tám trăm bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay là 12 tháng, ngày đến hạn là 25/4/2019, lãi suất là 9%/năm được điều chỉnh bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng trả lãi sau của Ngân hàng cộng phí cố định là 4%/năm, lãi suất quá hạn 150%/năm tính trên dư nợ gốc quá hạn.

Tài sản thế chấp bảo đảm nợ vay là quyền sử dụng đất số BB509131 do Ủy ban nhân dân huyện Giồng Riềng cấp ngày 09/8/2010 diện tích 19.322m2, thửa đất số 85, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại ấp Phạm Đình Nông, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang do hộ Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V đứng tên.

Kể từ ngày vay đến nay ông Q, bà V chưa thanh toán gốc và lãi cho Ngân hàng nên đã vi phạm hợp đồng. Tính đến ngày 02/10/2020 ông Q, bà V còn nợ Ngân hàng số tiền cụ thể là:

- Gốc: 840.000.000 đồng (tám trăm bốn mươi triệu đồng) - Lãi trong hạn: 184.800.000 đồng (một trăm tám mươi bốn triệu tám trăm nghìn đồng) - Tiền lãi quá hạn: 55.230.000 đồng (năm mươi lăm triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng) Tổng cộng gốc và lãi là: 1.080.030.000 đồng (một tỷ không trăm tám mươi triệu không trăm ba mươi nghìn đồng).

Nay anh Linh đại diện cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V phải thanh toán cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam số tiền gốc và lãi tính đến ngày 02/10/2020 là 1.080.030.000 đồng (một tỷ không trăm tám mươi triệu không trăm ba mươi nghìn đồng). Ngoài ra ông Q, bà Vphải trả lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký từ ngày 03/10/2020 đến khi thanh toán hết số nợ. Trường hợp ông Q, bà V không trả nợ hoặc trả không hết nợ thì Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản của ông Q, bà V để đảm bảo thi hành án.

Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập ông Q, bà V đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng ông Q, bà V vẫn vắng mặt, không rõ lí do.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Duy nhưng hết thời gian quy định vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Q, bà V phải thanh toán nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, ông Q, bà Vkhông có đăng ký kinh doanh nên quan hệ tranh chấp của vụ án là tranh chấp “Hợp đồng dân sự vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là ông Q, bà V có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Hộ ông Q, bà V được cấp quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang thế chấp để vay vốn của Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. Tại thời điểm được cấp quyền sử dụng đất vào ngày 09/8/2010, ngoài ông Q, bà V hộ gia đình ông, bà còn có Chị Nguyễn Thị Thúy D và Anh Nguyễn Cao Tr là con của ông Quỳ, bà Vân.

Do đó, Tòa án đưa chị Duy và anh Tr vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 68 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

- Xét hợp đồng tín dụng số 7705LAV201801006 ngày 07/5/2018: Thời hạn vay theo thỏa thuận là 12 tháng kể từ ngày 07/5/2018 đến ngày 25/4/2019, tính đến nay đã hết thời hạn thực hiện hợp đồng nhưng ông Q, bà V không thanh toán nợ cho Ngân hàng là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ đã cam kết. Căn cứ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 hợp đồng tín dụng số 7705LAV201801006 ngày 07/5/2018: “Khi đến hạn mà bên B không trả nợ, bên A có quyền yêu cầu một trong các thành viên khác trong gia đình có liên quan trả nợ gốc và lãi/khởi kiện theo quy định của pháp luật”. Do đó, Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam khởi kiện yêu cầu ông Q, bà V thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng là có cơ sở chấp nhận.

- Xét hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 7705LCL201800700 ngày 07/5/2018 đã được công chứng tại Văn phòng Công chứng Giồng Riềng vào ngày 07/5/2018 đảm bảo về hình thức theo quy định tại Điều 502 của Bộ luật Dân sự.

Diện tích đất đang thế chấp đã được Ủy ban nhân dân huyện Giồng Riềng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Quỳ, bà Vân. Tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp với Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam, hộ gia đình ông Q, bà V có bốn thành viên là ông Quỳ, bà Vân, chị Duy và anh Trí. Do chị Duy và anh Tr là người chưa thành niên nên ông Q, bà V là đồng chủ sử dụng quyền sử dụng đất đồng thời là người đại theo pháp luật của anh, chị đã ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất với Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. Mục đích vay vốn của ông Q, bà V là để phục vụ kinh doanh và sửa chữa nhà ở vì lợi ích chung của hộ. Do đó, căn cứ theo quy định tại các Điều 101, Điều 317, Điều 500, Điều 502 của Bộ luật dân sự thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 7705LCL201800700 ngày 07/5/2018 là hợp pháp nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình.

Xét thấy vào ngày 07/5/2018 giữa Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam và ông Q, bà V đã ký một hợp đồng tín dụng. Để bảo đảm nợ vay ông Q, bà V đã ký kết với Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam một hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có chứng thực cửa cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy hợp đồng vay tín dụng mà các đương sự đã ký kết là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự. Do đó, các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết.

Ngân hàng Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam khởi kiện yêu cầu xử lý tài sản thế chấp khi ông Q, bà V không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc không thực hiên đầy đủ nghĩa vụ trả nợ là phù hợp với quy định tại khoản 7 Điều 323 Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại khoản 7 Điều 323 Bộ luật dân sự về quyền của bên nhận thế chấp quy định:

„„7. Xử lý tài sản thế chấp khi thuộc trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này‟‟ Tại khoản 1 Điều 299 Bộ luật dân sự quy định về các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm:

“1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ ….” Từ cơ sở nhận định và phân tích trên Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam, buộc ông Q, bà V phải trả cho Ngân hàng số tiền cả gốc và lãi đến ngày 02/10/2020 là 1.080.030.000 đồng (một tỷ không trăm tám mươi triệu không trăm ba mươi nghìn đồng) là hoàn toàn phù hợp.

Kể từ ngày Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Q, bà V không trả đủ số tiền nêu trên thì ông Q, bà V còn phải trả cho Ngân hàng khoản tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành mà ông Q, bà V không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì phía Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án huyện Giồng Riềng kê biên phát mãi tài sản thế chấp theo quy định Điều 323 của Bộ luật dân sự để bảo đảm nợ vay theo hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất số BB509131 do Ủy ban nhân dân huyện Giồng Riềng cấp ngày 09/8/2010 diện tích 19.322m2, thửa đất số 85, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại ấp Phạm Đình Nông, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang do hộ Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V đứng tên. Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có trách nhiệm trả cho ông Q, bà V bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên sau khi đã nhận đủ tiền.

[3] Về án phí:

Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Yêu cầu của Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam được chấp nhận nên Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0003122 ngày 17/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông Q, bà Vphải chịu án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch trên số tiền là:

1.080.030.000 đồng = {(800.000.000 đồng = 36.000.000 đồng) + (280.030.000 đồng x 3% = 8.400.900 đồng)} = 44.400.900 đồng (bốn mươi bốn triệu bồn trăm nghìn chín trăm đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 68; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 269; Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 101, khoản 1 Điều 299; Điều 317; khoản 7 Điều 323;Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều 500; Điều 502 Bộ luật dân sự;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam đối với Ông Nguyễn Văn Q và Bà Cao Thị Cẩm V.

- Buộc Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V phải thanh toán cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam số tiền cả gốc và lãi tính đến ngày 02/10/2020 là 1.080.030.000 đồng (một tỷ không trăm tám mươi triệu không trăm ba mươi nghìn đồng). Ngoài ra ông Q, bà Vcòn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam theo mức lãi suất đã thỏa thuận của hợp đồng tín dụng nói trên tính từ ngày 03/10/2020 cho đến khi thi hành án xong.

Kể từ ngày Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Q, bà V không trả đủ số tiền nêu trên thì ông Q, bà V còn phải trả cho Ngân hàng khoản tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thi hành mà ông Q, bà V không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì phía Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án huyện Giồng Riềng kê biên phát mãi tài sản thế chấp theo quy định Điều 323 của Bộ luật dân sự để bảo đảm nợ vay theo hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất số BB509131 do Ủy ban nhân dân huyện Giồng Riềng cấp ngày 09/8/2010 diện tích 19.322m2, thửa đất số 85, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại ấp Phạm Đình Nông, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang do hộ Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V đứng tên. Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam có trách nhiệm trả cho ông Q, bà Vbản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên sau khi đã nhận đủ tiền.

2. Về án phí:

Ngân hàng không NN&PTNT Việt Nam không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp cho Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0003122 ngày 17/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Ông Nguyễn Văn Q, Bà Cao Thị Cẩm V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 44.400.900 đồng (bốn mươi bốn triệu bồn trăm nghìn chín trăm đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 02/10/2020, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/DS-ST ngày 02/10/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản

Số hiệu:79/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về