Bản án 79/2018/HSST ngày 27/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 79/2018/HSST NGÀY 27/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý 81/2018/HSST ngày 13/03/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 80/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Hạng AT – Sinh năm 1982. Tại B-Sơn La.

Nơi ĐKHKTT: Bản P, xã L, huyện M, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hạng A T - Sinh năm 1953 và con bà: Tráng Thị M-Sinh năm 1962; Bị cáo có vợ là Mùa Thị M, sinh năm 1985; Bị cáo có 06 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2013.

Tiền án; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam, giữ từ ngày 26/12/2017 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người tham gia tố tụng khác :

Người làm chứng: Hà Văn S, Hà Văn T1, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18h 00 phút, ngày 26/12/2017, Hà Văn S, sinh năm 1980; trú quán:

Tiểu khu X, xã Chiềng S, huyện M và Hà Văn T1, sinh năm 1981; trú quán: Bản K, xã C, huyện M gặp nhau tại đường dân sinh Tiểu khu X, xã C, huyện M, S rủ T1 đi mua ma túy về sử dụng, T1 đồng ý. Sau đó S và T1 đi bộ đến nhà Hạng A T gặp T đang ở nhà một mình, S hỏi T mua Hồng phiến nhưng T không có, ngay sau đó S lấy ra 220.000 đồng đưa cho T bảo T đi mua cho S 200.000 đồng hồng phiến, còn 20.000 đồng S trả công cho T, T đồng ý nhận tiền rồi đi bộ một mình ra đường dân sinh của bản P, xã L, huyện M thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi T mua được của người phụ nữ đó 04 viên ma túy tổng hợp (Hồng phiến) được gói riêng biệt từng viên bằng mảnh nilon màu xanh với giá 200.000 đồng rồi T mang về nhà đưa cho S. Sau khi mua được hồng phiến S và T1 đi bộ về, khi đi đến khu vực bản A, xã L, huyện M, S lấy 04 viên hồng phiến ra cùng T1 sử dụng, khi S và T1 vừa sử dụng hết 04 viên hồng phiến thì bị Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính. Tổ công tác đã thu giữ: 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 04 mảnh nilon màu xanh. Mở rộng điều tra, cùng ngày 26/12/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã thi hành lệnh bắt khẩn cấp đối với Hạng A T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, quá trình bắt giữ đã thu giữ của Hạng A T số tiền 20.000đ là tiền T được hưởng lợi từ việc mua bán trái phép chất ma túy cho Hà Văn S mà có.

Tại bản cáo trạng số: 36/CT-VKSMC ngày 12/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Hạng A T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hạng A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đồng thời đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Hạng A T từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu số tiền 20.000đ thu giữ của bị cáo để nộp ngân sách Nhà nước. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 04 mảnh nilon màu xanh đã qua sử dụng; 02 phong bì niêm phong đựng Test thử ma túy của Hà Văn S và Hà Văn T1

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí nội dung cáo trạng đã truy tố cũng như nội dung bản luận tội,  bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13h 00 phút, ngày 26/12/2017; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 26/12/2017 bị cáo Hạng A T đã có hành vi mua bán trái phép 04 viên hồng phiến (Ma túy tổng hợp) cho Hà Văn S với giá 200.000 đồng để thu lời bất chính số tiền 20.000đ. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Về nhân thân, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo nhận thức rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, cần quyết định hình phạt nghiêm khắc và phù hợp với hành vi phạm tội nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, do đó cần xem xét để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với số tiền 20.000đ đã thu giữ của bị cáo là tiền do bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 04 mảnh nilon màu xanh; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Hà Văn S ngày 26/12/2017. KQ: Dương tính; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Hà Văn T1 ngày 26/12/2017. KQ: Dương tính là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho Hạng A T. Do bị cáo không biết lai lịch địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để điều tra và xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hà Văn S và Hà Văn T1 không phải là tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hạng A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Hạng A T 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày: 26/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án:

Tịch thu số tiền 20.000đ (Hai mươi nghìn đồng) đã thu giữ của bị cáo để nộp ngân sách Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng cũ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy và 04 mảnh nilon màu xanh; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma túy của Hà Văn S ngày 26/12/2017. KQ: Dương tính; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi Test thử ma  túy của Hà Văn T1 ngày 26/12/2017. KQ: Dương tính.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HSST ngày 27/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về