Bản án 79/2018/HSST ngày 18/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 79/2018/HSST NGÀY 18/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 73/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H (tên gọi khác: N), sinh năm 1992 tại Bà Rịa-Vũng Tàu; hộ khẩu thường trú: Số S, đường H, phường A, thành phố C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; chổ ở hiện nay: Không ổn định. nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hoá: 7/12; con ông: không rõ và bà Nguyễn Thị B; gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con út.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án; ngày 12-12-2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05-9-2018 cho đến ngày xét xử.

(Bị cáo Nguyễn Minh H có mặt tại phiên toà).

- Bị hại:

1. Ông Phạm Hữu S, sinh năm 1966 (vắng mặt – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bà Đoàn Thị Tr, sinh năm 1968 (vắng mặt – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Đoàn Ngân T là con ruột của Ông Phạm Hữu S và Bà Đoàn Thị Tr.

Do không có tiền trả nợ nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của gia đình. Vào khoảng 19 giờ ngày 16-7-2018, T gọi điện nhờ Nguyễn Minh H (là bạn của T) chở T từ Thành phố Hồ Chí Minh về nhà cha mẹ của T ở thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên H đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 68D1-220.10 chở T về nhà cha mẹ của T nhưng H không biết ý định của T là về nhà để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì cả hai về đến nhà ông S và bà Tr. Khi về đến nhà thì H ngủ tại phòng khách, còn T ngủ với bà Tr, đến khoảng 03 giờ sáng ngày 17-7-2018, T thức dậy đồng thời đánh thức H dậy và nói H dắt chiếc xe hiệu Wave RSX biển số 72F1-35145 của ông S và bà Tr đang dựng ở nhà bếp ra ngoài thì H đồng ý dắt xe ra còn T dùng ổ khóa bấm khóa ngoài các cánh cửa nhà lại nhằm mục đích không để cho ông S và bà Tr ra ngoài được. Lúc này, bà Tr tỉnh dậy và phát hiện thấy sự việc, bà Tr truy hô thì H mới biết Trang trộm xe của nhà, H định vào lấy xe mô tô biển số 68D1-220.10 của mình nhưng T không đồng ý. H lo sợ nên chạy bộ ra ngoài cổng nhà, sau đó T lấy xe mô tô 72F1-35145 vừa trộm được chạy ra đưa xe cho H để H chở T lên thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến ngã tư An Sương thì H bắt xe buýt về lại phòng trọ của mình còn T điều khiển xe chạy đến huyện Hóc Môn giao xe cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) để cấn trừ số tiền 8.500.000đồng mà T nợ trước đó.

Sau khi sự việc xảy ra, ngày 24-7-2018 Bà Đoàn Thị Tr trình báo hành vi của T và H lên Cơ quan Công an. T và H sau khi thực hiện hành vi đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã ra thông báo truy tìm đối tượng gây án. Đến ngày 04-9-2018, Nguyễn Minh H điều khiển xe mô tô biển số 62X1-5552 chở T về thị trấn Ngãi Giao thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức triệu tập về làm việc. Tại đây, T và H đã thừa nhận hành vi của mình như đã nêu trên (Bút lục số 74-79; 115-117; 120-122;128-135) Tại biên bản kết luận định giá tài sản số 116/HĐĐG ngày 01-8-2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Châu Đức kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu wave RSX, màu đỏ – đen, biển số 72F1-351.45 có giá trị 13.566.000 đồng (Bút lục số 37).

Đi với Phạm Đoàn Ngân T, hiện đã bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 13- 11-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định truy nã đối với Phạm Đoàn Ngân T, ngày 30-11-2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức đã ra Quyết định tạm đình chỉ đối với bị can Phạm Đoàn Ngân T.

Vt chứng vụ án:

01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 72F1-351.45, sau khi trộm cắp được T đã đem cấn trừ số nợ cho một người đàn ông (không rõ lại lịch) ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức không thu hồi được chiếc xe trên.

Chiếc xe mô tô biển số 68D1-220.10 là phương tiện mà bị cáo H chở Phạm Đoàn Ngân T về Thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, không xác định được chủ sở hữu. Hiện đã chuyển đến Chi cục T hành án dân sự huyện Châu Đức để quản lý.

Chiếc xe mô tô biển số 62X1-5552, khi triệu tập T và H về làm việc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã tạm giữ chiếc xe trên. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức tách hồ sơ tiếp tục xác minh để làm rõ nguồn gốc xe và xử lý sau (Bút lục số 42 – 44).

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Phạm Hữu S và Bà Đoàn Thị Tr không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường trách nhiệm dân sự (bút lục số 123-125).

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 30-11-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước đối với chiếc xe mô tô biển số 68D1-220.10.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh H đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố, không tranh tụng tại phiên tòa và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Minh H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 03 giờ sáng ngày 17-7-2018, tại nhà Ông Phạm Hữu S và Bà Đoàn Thị Tr thuộc thôn T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, bị cáo Nguyễn Minh H đã lấy 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 72F1-351.45 của ông S và bà Tr đem ra trước sân nhà thì bị bà Tr và ông Sơn phát hiện và truy hô nên bị cáo đã điều khiển xe mô tô nêu trên cùng với Phạm Đoàn Ngân T lên thành phố Hồ Chí Minh để T đem đi bán cấn trừ nợ. Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản thì chiếc xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 72F1-351.45 có trị giá 13.566.000đồng nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Bị cáo Nguyễn Minh H là người đã trưởng thành, có đủ nhận thức và hiểu biết hành vi trộm cắp tài sản là phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người thân mà còn làm mất trật tự trị an địa phương. Sự cần Tết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội đồng thời mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định cho bị cáo một mức hình phạt phù hợp.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án; ngày 12-12-2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo mới chấp hành xong hình phạt vào ngày 02-02-2018 chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Xét thấy bị cáo không ăn năn hối cải nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo.

Như vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối với hành vi của Phạm Đoàn Ngân T đã cùng bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay, Phạm Đoàn Ngân T đã bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 13-11-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định truy nã và ngày 30-11-2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức đã ra Quyết định tạm đình chỉ đối với bị can Phạm Đoàn Ngân T.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Ông Phạm Hữu S và Bà Đoàn Thị Tr không yêu cầu gì về bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Wave RSX, màu đỏ - đen, biển số 72F1-351.45, sau khi trộm được T đã đem cấn trừ số nợ cho một người đàn ông (không rõ lại lịch) ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức không thu hồi được.

- Chiếc xe mô tô biển số 62X1-5552, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã tạm giữ chiếc xe trên. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức tách hồ sơ tiếp tục xác minh để làm rõ nguồn gốc xe và xử lý sau.

- 01 chiếc xe mô tô biển số 68D1-220.10 là xe do bị cáo chở Phạm Đoàn Ngân T về nhà cha mẹ của T để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra không xác định được chủ sở hữu, bị cáo khai mua lại của một người không rõ nhân thân, lai lịch và không có giấy tờ xe theo quy định. Kết luận của cơ quan giám định thì số khung bị tẩy xóa còn số máy thì quản lý trên dữ liệu không xác định được. Tại phiên tòa bị cáo từ chối nhận lại xe mô tô này nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Nguyễn Minh H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 05-9-2018.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Hữu S và Bà Đoàn Thị Tr không yêu cầu gì về bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe mô tô không nhãn hiệu, màu đen, biển số 68D1-220.10, số khung bị tẩy xóa, số máy: LC152FMH.01504676 (hiện Chi cục T hành án dân sự huyện Châu Đức đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11-12-2018).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh H phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18-12-2018). Bị cáo có quyền kháng cáo. Đối với bị hại vắng mặt thì thời hạn này được tính kể từ ngày Tòa án tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HSST ngày 18/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:79/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về