TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 79/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2018/TLST- HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Tiến T (Tên gọi khác: T Ky), sinh ngày 12 tháng 11 năm 1990 tại Thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị X; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Lịch sử bản thân:
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2009/HSST ngày 08/6/2009 của Tòa án nhân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Tiến T 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (phạm tội ngày 10/6/2007, trị giá tài sản là 18.410.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/9/2009.
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2013/HSST ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Tiến T 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (phạm tội ngày 25/5/2012, trị giá tài sản là 600.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2014. Chấp hành xong án phí tháng 3/2013.
- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2015/HSST ngày 10/02/2015 của Tòa án nhân huyện Tam D, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Tiến T 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (phạm tội ngày 27/10/2014, trị giá tài sản là 6.155.000 đồng).
Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/02/2016. Chấp hành xong án phí tháng 02/2015.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/7/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc theo lệnh tạm giam của Tòa án nhân dân huyện Tam D, tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.
- Bị hại: Chị Kim Thùy L, sinh năm 1996: trú tại: Thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc“ vắng mặt”.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Anh Nguyễn Duy P và chị Phan Thị Huyền C “đều vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Tiến T và Kim Thùy L là người nghiện ma túy và có quen biết nhau. Khoảng 18 giờ ngày 07 tháng 7 năm 2018, khi đang ở nhà bạn trai là Nguyễn Duy P do có nhu cầu sử dụng ma túy MDMA dạng viên nén (thường gọi là ma túy kẹo) nên L gọi điện cho T hỏi mua ma túy để sử dụng. Mặc dù không có ma túy để bán nhưng do L hỏi mua nên T nảy sinh ý định bán ma túy giả cho L để chiếm đoạt tài sản. T nói dối L là có ma túy bán và nói giá bán 550.000 đồng/viên. L tin tưởng nên thỏa thuận với T muốn mua 07 viên ma túy. T đồng ý và thuê xe taxi đi đến hiệu thuốc của chị Phan Thị Huyền C ở xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc mua 10 viên cloxit có đặc điểm gần giống với “ma túy kẹo” để bán cho L. T vứt bỏ ba viên, còn lại bảy viên để trong 01 túi ni lông màu trắng cất trong người. Khi đi đến D, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, T nhìn thấy bạn tên H, (không rõ họ tên đệm, địa chỉ) đang ngồi ở quán nước ven đường nên xuống xe rủ Huyền đi chơi cùng. H đồng ý, khoảng 19 giờ cùng ngày L rủ P đi đến thành phố Vĩnh Yên chơi, mục đích là để mua ma túy nhưng không nói cho P biết. P điều khiển xe môtô chở L, khi đi đến cây xăng thuộc địa phận khu phố 1, thị trấn H, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, P vào đổ xăng còn L đi bộ đến gặp T đang đợi ở ven đường để mua bán ma túy. T ngồi trong xe taxi, hạ kính xuống, L đưa cho T số tiền 3.400.000 đồng để mua 07 viên ma túy và nói tiền còn thiếu sẽ trả sau. T đồng ý, cầm tiền và đưa cho L túi nilon chứa 07 viên thuốc cloxit bán cho L. Cùng lúc này Tổ công tác của Công an huyện Bình Xuyên phát hiện, T ném bỏ 07 viên cloxit xuống đất và yêu cầu lái xe taxi tăng ga bỏ chạy thoát. Công an huyện Bình Xuyên thu giữ được 07 viên nén màu trắng có đặc điểm trên mỗi mặt của từng viên đều in ký tự chìm hình “CM/0,25” để trong 01 gói nilon màu trắng tại nền đất cạnh nơi Lđứng được niêm phong theo quy định ký hiệu A1.
Ngày 13 tháng 7 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Xuyên trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định đối với mẫu ký hiệu A1. Tại bản kết luận giám định số 971/KLGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc xác định 07 viên nén màu trắng T bán cho L có trọng lượng 1,9510 gam không kể bao bì, không phát hiện thấy chứa thành phần ma túy. Hoàn trả mẫu A1 trọng lượng 1,1550 gam cùng toàn bộ bao gói.
Ngày 25 tháng 7 năm 2018, sau khi biết Nguyễn Tiến T bán ma túy giả cho mình, chị Kim Thùy L đã có đơn tố giác đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Xuyên đề nghị xử lý đối với T về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định của pháp luật.
Ngày 09 tháng 7 năm 2018, Nguyễn Tiến T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc bắt tạm giam về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Quá trình làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Xuyên, Nguyễn Tiến T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Đối với Kim Thùy L là người nghiện ma túy. Ngày 07/7/2018, L hỏi mua 07 viên ma túy của T mục đích để sử dụng nhưng chưa mua được ma túy. Hành vi trên của L không cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã nhắc nhở, giáo dục.
Đối với chị Phan Thị Huyền C, quá trình điều tra làm rõ khi bán 10 viên thuốc cloxit cho Nguyễn Tiến T nhưng không biết T sử dụng vào mục đích phạm tội.
Đối với lái xe taxi chở Nguyễn Tiến T bỏ chạy khi Công an huyện Bình Xuyên phát hiện, T khai là một nam giới không quen biết, không nhớ hãng taxi, biển kiểm soát xe nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.
Đối với đối tượng nữ giới tên là Huyền đi cùng T, quá trình điều tra T khai là đối tượng bỏ nhà đi lang thang, không biết họ, tên đệm, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ.
Đối với Nguyễn Duy P đi cùng L, quá trình điều tra làm rõ P không biết việc L và T mua bán ma túy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Tại Bản cáo trạng số 81/CT-VKSBX ngày 18 tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên toà Kiểm sát viên trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tiến T về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T từ 12 tháng đến 15 tháng tù; đề nghị giải quyết về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của những người tham gia tố tụng:
Bị hại là chị Kim Thùy L, người làm chứng anh Nguyễn Duy P và chị Phan Thị Huyền C vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra chị L, anh P và chị Châm đã khai đầy đủ phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và sự việc xảy ra đúng như lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Tiến T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, bị cáo khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 07 tháng 7 năm 2018, tại khu vực cây xăng đối diện trường Trung học phổ thông Bình Xuyên thuộc địa phận khu phố 1, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Tiến T dùng 07 viên nén cloxit giả là ma túy tổng hợp (ma túy kẹo) bán cho Kim Thùy L, số tiền chiếm đoạt là 3.400.000 đồng.
[2] Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và vật chứng vụ án thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Nguyễn Tiến T đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tội danh được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
[3] Xét tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện tính coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét nhân thân bị cáo Nguyễn Tiến T cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Tuy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là thành khẩn khai báo nhưng trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã ba lần bị kết án tù về tội trộm cắp tài sản tuy đã được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội. Ngày
17 tháng 10 năm 2018 bị cáo tiếp tục bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, tính đến ngày xét xử Bản án của Tòa án nhân dân huyện T chưa có hiệu lực pháp luật nên không tổng hợp hình phạt trong bản án này. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cũng như giúp bị cáo cải tạo thành người công dân tốt như đề xuất của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng của vụ án: Buộc bị cáo phải trả lại cho chị Kim Thùy L số tiền 3.400.000 đồng.
Đối với 07 viên nén màu trắng có trọng lượng 1,1550 gam cùng toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại Nguyễn Tiến T sử dụng liên lạc với Kim Thùy L, T khai là điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 đã vứt bỏ ở ven đường trong quá trình bỏ chạy, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với chiếc điện thoại của Kim Thùy L sử dụng liên lạc với Nguyễn Tiến T, L khai là điện thoại nhãn hiệu Iphone đã bán cho một cửa hàng nhưng không nhớ tên, địa chỉ cụ thể ở khu vực thành phố Vĩnh Yên, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến T (Tên gọi khác: T Ky) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến T 01 (Một ) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; các Điều 584, 585, 586 và 589 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015: Buộc bị cáo phải trả cho chị Kim Thùy L số tiền là 3.400.000 đồng (Ba triệu bốn trăm nghìn đồng ).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 07 viên nén màu trắng có trọng lượng 1,1550 gam cùng toàn bộ bao gói. Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 08 tháng 11 năm 2018.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 170.000 đồng (Một trăm bảy mươi nghìn đồng) án phí dân sự trong án hình sự.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 79/2018/HS-ST Ngày 09/11/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 79/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về