Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 79/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 272/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 102/2018/QĐST-HNGĐ ngày 14/6/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị P, sinh năm 1989.

Hộ khẩu thường trú: Ấp PB, xã SX, huyện T, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Địa chỉ tạm trú: Tổ 1, khu PH, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn

Anh Dương Hải B, sinh năm 1988.

Hộ khẩu thường trú: Số nhà 431/3, Tổ 12, ấp 6, xã PB, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện nộp ngày 09 tháng 4 năm 2018 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Dƣơng Thị P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Dương Hải B sống chung với nhau từ năm 2006 và có đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Qúa trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu. Sau đó, đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách và không có tiếng nói chung nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, anh B thường xuyên say xỉn về chửi bới, xúc phạm và đánh đập chị. Vợ chồng đã tự hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Từ tháng 9/2016 đến nay anh chị đã ly thân, chị chuyển ra nhà trọ để sinh sống. Nay chị nhận thấy mục đích hôn nhân ý nghĩa hạnh phúc gia đình không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Dương Hải B.

Về con chung: Chị và anh Dương Hải B có 02 con chung tên Dương Hải T, sinh ngày 28/9/2006 và Dương Bảo N, sinh ngày 02/3/2012. Tại đơn khởi kiện ngày 10/3/2018 chị trình bày được quyền nuôi hai con và không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi hai con. Tuy nhiên, tại các lời khai tiếp theo và cũng như tại phiên tòa chị thay đổi yêu cầu khi ly hôn chị có nguyện vọng được giao cháu T và cháu N cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bị đơn anh Dƣơng Hải B vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án công bố biên bản lấy lời khai ngày 18/5/2018 của anh B nhƣ sau:

 Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị P đăng ký kết hôn tự nguyện vào năm2008 tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện LT.

Trong thời gian chung sống anh B xác định vợ chồng hạnh phúc từ khi kết hôn cho đến đầu năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Hiện nay anh chị đã ly thân và không còn sống cùng nhau. Nay chị Dương Thị P yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý vì anh xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể hàn gắn được.

Về con chung: Anh và chị Dương Thị P có 02 con chung tên Dương Hải T, sinh ngày 28/9/2006 và Dương Bảo N, sinh ngày 02/3/2012. Ly hôn chị P có nguyện vọng giao cháu T và cháu N cho anh trực tiếp nuôi dưỡng thì anh đồng ý, anh không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi 02 con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong việc xác định thẩm quyền, thu thập chứng cứ và tiến hành tố tụng đúng quy định. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn được đảm bảo quyền lợi và chấp hành pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị P. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P đối với anh B. Về con chung giao cháu Dương Hải T, sinh ngày 28/9/2006 và Dương Bảo N, sinh ngày 02/3/2012 cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, chị P không cấp dưỡng nuôi 02 con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn chị Dương Thị P khởi kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con với bị đơn anh Dương Hải B cư trú tại Tổ 12, Ấp 6, xã PB, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nhân dân huyện Long Thành giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn anh Dương Hải B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị Dương Thị P và anh Dương Hải B xây dựng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện LT, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 85 Quyển số 01/2008 ngày 19/9/2008 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời khai chị P và anh B thì sau khi chung sống được thời gian đầu hạnh phúc thì từ năm 2016 đến nay vợ chồng bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách, không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã tự hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Từ năm 2016 đến nay chị P và anh B đã ly thân và không còn sống cùng nhau.

Qua xác minh tại địa phương xã PB thể hiện vợ chồng chị P và anh B có xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau nên hiện nay chị P và anh B không còn sống cùng nhau. Qúa trình thụ lý, Tòa án đã thông báo cho anh B biết để đến làm việc cũng như tham gia hòa giải quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh B nhưng anh B vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được điều này cũng thể hiện anh B không cònquan tâm đến hạnh phúc gia đình, hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị P.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh B là có mâu thuẫn trầm trọng. Vì vậy, việc chị P yêu cầu được ly hôn với anh B là hoàn toàn có cơ sở nên chấp nhận.

Về con chung: Chị Dương Thị P và anh Dương Hải B có 02 con chung tên Dương Hải T, sinh ngày 28/9/2006 và Dương Bảo N, sinh ngày 02/3/2012.

Anh Dương Hải B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và cháu N. Đồng thời, nguyện vọng cuả cháu Dương Hải T cũng thể hiện là được sống cùng anh Dương Hải B. Hiện tại cháu T và cháu N đang sinh sống ổn định cùng anh B và anh B đang có công việc, có thu nhập đủ khả năng nuôi con nên khi ly hôn chị P yêu cầu được giao con cho anh Dương Hải B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật nên chấp nhận.

Về cấp dưỡng: Do anh Dương Hải B không có yêu cầu cấp dưỡng và chị Dương Thị P không có ý kiến gì nên Tòa án không xem xét. Khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự khai không có nên không xem xét.

Về án phí: Chị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227; Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Dương Thị P đối với anh Dương Hải B về việc „„Tranh chấp ly hôn‟‟. Xử cho chị Dương Thị P được ly hôn với anh Dương Hải B.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Hải T, sinh ngày 28/9/2006 và Dương Bảo N, sinh ngày 02/3/2012 cho anh Dương Hải B được quyền nuôi dưỡng, tạm thời chị Dương Thị P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Dương Thị P có quyền thăm nom con, không ai được cản trở chị P thực hiện quyền này. Trong trường hợp chị P lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì anh B có quyền yêu cầu Tòa án quyết định hạn chế quyền thăm nom con của chị P. Khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Dương Thị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị P đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 002151 ngày 20 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành (Chị P đã nộp xong).

5. Chị Dương Thị P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Dương Hải B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:79/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về