Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 09/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 79/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Vào ngày 09 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thoại Sơn, An Giang mở phiên tòa xét xử công khai vụ kiện Hôn nhân gia đình thụ lý số 100/2018/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2018, về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình về Ly hôn; Nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 253/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Kim M, sinh năm 1991;

Nơi cư trú: Số 569 tổ 17, ấp T, xã B, huyện S, An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Huỳnh Công H (Nết), sinh năm 1981;

Nơi cư trú: Tổ 12 ấp B1, xã B, huyện S, An Giang. (Các đương sự đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Phan Kim M ngày 05/3/2018 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà có nội dung như sau: Chị Phan Kim M sống chung với anh Nguyễn Huỳnh Công H từ năm 2012 và đó có đăng ký kết hôn tại UBND xã B (số 54 ngày 28/6/2013); Thời gian đầu chung sống hạnh phúc và có 01 con chung tên Nguyễn Thị Phan Kim M sinh ngày 02/6/2013; Đến năm 2017 thì vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do làm ăn bị nợ nần và anh H không quan tâm vợ con, rất nhiều lần hàn gắn chung sống nhưng không có kết quả, hiện tại không còn tình cảm với chồng nên đã sống ly thân nhau gần một năm nay, đồng thời từ khi ly thân đến nay chị Kim M vẫn nuôi con.

Nay chị Phan Kim M yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Huỳnh Công H; Về con chung chị M yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng và không yêu cầu nh H cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

* Theo bản khai của bị đơn anh Nguyễn Huỳnh Công H ngày 27/4/2018 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa có nội dung như sau: Anh Nguyễn Huỳnh Công H thừa nhận có sống chung với chị Phan Kim M từ năm 2012, có đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại UBND xã B, vợ chồng chung sống hạnh phúc và có với nhau 01 con chung tên Nguyễn Thị Phan Kim M như chị M Trình bày. Vợ chồng sống chung không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ do làm ăn thất bại và thiếu nợ nên vợ chồng thường hay cự cãi, đồng thời cô Phan Kim M đã bỏ nH đi về gia đình bên vợ sống gần một năm nay cùng đứa con gái.

Nay cô Phan Kim M yêu cầu ly hôn thì anh Nguyễn Huỳnh Công H đồng ý với điều kiện giao con cho anh nuôi dưỡng, đồng thời không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; Về quan hệ tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Tại phiên tòa, anh Nguyễn Huỳnh Công H đồng ý ly hôn với chị Kim M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ kiện và được thẩm tra tại phiên tòa, qua tranh luận công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận xét như sau:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về Ly hôn, nuôi con; Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H đã thừa nhận có sống chung như vợ chồng từ năm 2012 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật; Nay do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, cuộc sống chung không phù hợp nên chị Phan Kim M xin được ly hôn với anh Nguyễn Huỳnh Công H, đồng thời tại phiên tòa phía anh H cũng chấp nhận ly hôn. Xét thấy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Cuộc sống hôn nhân vợ chồng là nhằm xây dựng một gia đình thật sự hạnh phúc, trở tHnh một tế bào của xã hội, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc và quan tâm lẫn nhau nhưng quan hệ vợ chồng giữa chị Kim M và anh H xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn tồn tại, thực tế anh chị không còn quan tâm và chăm sóc lẫn nhau và cả hai đã sống ly thân nhau gần một năm nay. Như vậy, quan hệ vợ chồng chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân giữa hai người không đạt được nên căn cứ Điều 55 Luật HNGĐ 2014 cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H.

[3] Về quan hệ con cái: Chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H thừa nhận có 01 con chung tên Nguyễn Thị Phan Kim M sinh ngày 02/6/2013, sau khi ly hôn thì chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H đều có yêu cầu được nuôi con chung và đồng thời không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy từ khi chị Kim M và H sống ly thân nhau thì cháu Nguyễn Thị Phan Kim M đều do chị Kim M nuôi dưỡng, chăm sóc, cho đi học ổn định và có sự xác nhận của Ban giám hiệu Trường mẫu giáo xã Bình THnh; Đồng thời, do là con gái và tuổi còn rất nhỏ nên cháu Kim M cần sự chăm sóc của người mẹ nên căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật HNGĐ năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu của chị Phan Kim M là được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Nguyễn Thị Phan Kim M; Tuy nhiên, phía chị Kim M phải tạo điều kiện cho anh Nguyễn Huỳnh Công H được thăm nom và chăm sóc con theo quy định pháp luật.

[4] Về quan hệ cấp dưỡng: Theo khoản 3 Điều 82 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Lẽ ra, anh Nguyễn Huỳnh Công H không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Phan Kim M để phụ tiếp phần nào chi phí cho cuộc sống và học tập cho cháu Kim M sau này, tuy nhiên phía chị Kim M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị và phù hợp pháp luật nên được chấp nhận và không buộc anh Nguyễn Huỳnh Công H cấp dưỡng nuôi con cho chị Phan Kim M. Tuy nhiên, khi điều kiện kinh tế thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và yêu cầu việc cấp dưỡng.

[5] Về quan hệ tài sản: Chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H không yêu cầu giải quyết về tài sản nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[6] Về án phí, lệ phí sơ thẩm: Do chị Phan Kim M có yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Huỳnh Công H nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 9, Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của luật HNGĐ năm 2014; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phan Kim M và anh Nguyễn Huỳnh Công H.

+ Về quan hệ con cái, cấp dưỡng:

- Giao cháu Nguyễn Thị Phan Kim M sinh ngày 02/6/2013 cho chị Phan Kim M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (Cháu Kim M đang sống chung với chị Kim M). Chị Phan Kim M phải tạo điều kiện cho anh Nguyễn Huỳnh Công H được thăm nom và chăm sóc con.

- Anh Nguyễn Huỳnh Công H không phải cấp dưỡng nuôi con cho chị Phan Kim M.

+ Về quan hệ tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

+ Về án phí sơ thẩm: Chị Phan Kim M phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo phiếu thu số 0001053 ngày 04/4/2018 của Chi cục Thi Hnh án dân sự huyện Thoại Sơn, An Giang; Được khấu trừ nên chị Phan Kim M đã nộp xong.

Báo cho đương sự có mặt tham dự phiên tòa biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án (có lý do chính đáng) có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HNGĐ-ST ngày 09/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:79/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về