Bản án 788/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 788/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 88/2018/TLST-HNGĐ, ngày 26 tháng 01 năm 2018 về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 106/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Quách Thị V. – sinh năm 1985

Địa chỉ: Số A, đường B, phường C, Quận 5, Tp. HCM.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H. – sinh năm 1981

Địa chỉ: Số X đường Y, phường Z, quận Tân Phú, Tp. HCM. (Tại phiên tòa, bà Quách Thị V. – có mặt, ông Nguyễn Thanh H. – vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/12/2017, bản tự khai và các buổi phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nguyeân ñôn bà Quách Thị V. trình bày: bà và ông Nguyễn Thanh H. chung sống với nhau từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận O, Tp. HCM.

- Về mâu thuẫn gia đình : Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng từ cuối năm 2013 đến nay thì tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, vợ chồng không phù hợp tính tình, lối sống, không thống nhất hay chia sẽ trong mọi quyết định của gia đình, cả hai không thống nhất được cách nuôi dạy con cái và chi tiêu sinh hoạt trong gia đình. Nay nhận thấy không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng, bà yêu cầu xin ly hôn với ông H.

- Về con chung : Bà và ông Hùng có 02 người con chung tên Nguyễn Duy M. – sinh ngày 04/11/2009 và Nguyễn Mạnh D. – sinh ngày 05/6/2014.

Bà yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Mạnh D., không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung và giao trẻ Nguyễn Duy M. cho ông H. trực tiếp nuôi dưỡng, bà không cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung , nợ chung: Bà trình bày không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn ông Nguyễn Thanh H. vẫn vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Quách Thị V. vẫn giữ nguyên yêu cầu. Bị đơn ông Nguyễn Thanh H. vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 48, Điều 68, Điều 69, khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc Tòa thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, đúng quan hệ tranh chấp và về thu thập chứng cứ , xác định đúng tư cách đương sự. Việc tham gia hỏi tại phiên tòa của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu theo quy định tại Điều 203 và Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 87, quyển số 01/2009 ngày 22/5/2009 của Ủy ban nhân dân phường N, Quận O, Tp. HCM, thì quan hệ giữa bà Quách Thị V. và ông Nguyễn Thanh H. là quan hệ hôn nhân được pháp luật công nhận. Tại phiếu yêu cầu xác minh ngày 13/5/2018, công an phường Z, quận Tân Phú, Tp. HCM xác nhận đương sự Nguyễn Thanh H. hiện đang tạm trú tại số Số X, đường Y, phường Z, quận Tân Phú, Tp. HCM. Bà Quách Thị V. nộp đơn khởi kiện (về việc ly hôn) tại Tòa án nhân dân quận Tân Phú nên Tòa án nhân dân quận Tân Phú thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự .

 [2] Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn: ông Nguyễn Thanh H. đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không đến. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Thanh H.

 [3] Về các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn bà Quách Thị V., căn cứ vào công văn trả lời của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ phường Z về xác minh mâu thuẫn giữa các đương sự tại địa phương, căn cứ vào lời trình bày của người thân trong gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy giữa ông Nguyễn Thanh H. và bà Quách Thị V. có mâu thuẫn xuất phát từ việc ông H. có người phụ nữ khác bên ngoài nên tình cảm giữa ông H. và bà V. ngày càng lạnh nhạt. Vào tháng 04 năm 2017, bà V. đã từng nộp đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh H. tại Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Tp. HCM nhưng sau đó, bà đã rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện vì bà mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa bà V. và ông H. ngày càng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống nên ngày 18/1/2018, bà V. đã nộp đơn xin ly hôn với ông H. lần thứ hai. Hiện nay, ông Nguyễn Thanh H. và bà Quách Thị V. không còn chung sống cùng nhà. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định pháp luật nhưng ông Nguyễn Thanh H. vẫn không đến và không có ý kiến bằng văn bản nộp cho Tòa án. Việc này thể hiện bị đơn ông Nguyễn Thanh H. đã không thiết tha trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Quách Thị V. là có cơ sở.

- Về con chung: Bà V. xác nhận giữa bà và ông H. có hai người con chung tên Nguyễn Duy M. – sinh ngày 04/11/2009 và Nguyễn Mạnh D. – sinh ngày 05/6/2014. Bà V. yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Mạnh D. và giao trẻ Duy M. cho ông H. trực tiếp nuôi dưỡng. Qua lời trình bày của người thân trong gia đình thì trẻ Duy M. sống từ nhỏ cùng với ông H. và gia đình bên nội. Bên cạnh đó, tại bản tự khai ngày 21/6/2018, trẻ Duy M. có mong muốn tiếp tục được chung sống cùng ông H. Hội đồng xét xử xét thấy nên giao trẻ Duy M. cho ông H. trực tiếp nuôi dưỡng và giao trẻ Mạnh D. cho bà V. trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: nguyên đơn bà Quách Thị V. không cấp dưỡng nuôi con chung Duy M. và không yêu cầu ông H. cấp dưỡng nuôi con chung Mạnh D. nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: nguyên đơn bà Quách Thị V. trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.Giành quyền khởi kiện về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung cho bị đơn ông Nguyễn Thanh H. trong vụ án khác.

 [4] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng do bà Quách Thị V. phải nộp theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phí và Lệ phí năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 177, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Quách Thị V.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Quách Thị V. được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 87, quyển số 01/2009 ngày 22/5/2009 của Ủy ban nhân dân phường N, Quận O, Tp. HCM cấp cho bà Quách Thị V. và ông Nguyễn Thanh H. không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao con chung là trẻ Nguyễn Duy M. – sinh ngày 04/11/2009 cho ông Nguyễn Thanh H. trực tiếp nuôi dưỡng, bà Quách Thị V. không cấp dưỡng nuôi con chung. Giao con chung là trẻ Nguyễn Mạnh D. – sinhngày 05/6/2014 cho bà Quách Thị V. trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Thanh H. không cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Nguyễn Thanh H. và bà Quách Thị V. có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông Nguyễn Thanh H. và bà Quách Thị V. cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở việc ông Nguyễn Thanh H. và bà Quách Thị V. thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung

+ Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó

+ Khi có lý do chính đáng mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết

+ Vì cơ sở lợi ích của con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014), Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

-Về tài sản chung và nợ chung: nguyên đơn bà Quách Thị V. trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

Giành quyền khởi kiện về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung cho bị đơn ông Nguyễn Thanh H. trong vụ án khác.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng do bà Quách Thị V. phải nộp, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0010586 ngày 26/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Quách Thị V. đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 788/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn

Số hiệu:788/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về