Bản án 78/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/HSST ngày 10/3/20121, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Sỹ T, tên gọi khác: không. Sinh ngày 20 tháng 02 năm 2004, tại: Thanh Hóa; HKTT: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D; Chỗ ở: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12, Nghề nghiệp: làm thuê; Con ông: Lê Sỹ Ng, sinh năm 1970, con bà: Mạch Thị H, sinh năm 1973; gia đình có 03 anh em, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2010, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/11/2020. có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Mạch Thị H, sinh năm 1973 Trú tại: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D. có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: bà Lê Thanh Luyến - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lâm Đồng. có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Chị H Nghi A, sinh năm 1995.

Trú tại: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D. có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1976 Trú tại: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D. có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Chị Trần Thị Phương A, sinh năm 1990.

Trú tại: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh D, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Lê Sĩ T đã nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt Tài sản cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 19 giờ ngày 19/11/2020, T đi bộ ngang qua ngôi nhà địa chỉ 05 Chi Lăng, phường A, Đà Lạt, thì nhìn thấy trong sân nhà có 01 xe máy hiệu HALONG (dạng dream) màu nâu, biển số 49B1 – 270.51 không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp T sản. Thực hiện ý định, T lén lút đi vào trong sân, đẩy chiếc xe máy ra đường, ngồi lên xổ xuống dốc, dùng chìa khóa phòng trọ của T mở được khóa điện chiếc xe máy rồi điều khiển về phòng trọ tại phường A, Đà Lạt cất giấu. Sau đó , T điều khiển xe máy đến các tiệm sửa xe bán nhưng không ai mua nên T sử dụng làm phương tiện đi lại.

Anh Nguyễn Văn Th là chủ sở hữu chiếc xe máy trên. Tại kết luận định giá số 272/KL- ĐG ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá Tài sản trong tố tụng hình sự Đà Lạt xác định chiếc xe máy hiệu Halong màu nâu, biển số 49B1 – 270.51, số máy G3820251943, số khung G0022H10107 mà T trộm cắp có giá trị 3.500.000đ (ba triệu năm trăm ngàn đồng). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại Tài sản cho anh Th.

Lần 2: Vào trưa ngày 21/11/2020, T điều khiển chiếc xe máy trộm cắp của anh Th đi vòng quanh Hồ Xuân Hương tìm kiếm người sơ hở trong quản lý Tài sản để chiếm đoạt. Khi đến khu vực bùng binh nước Chợ đêm Đà Lạt thì thấy chị Trần Thị Phương A đang điều khiển xe máy chở phía sau là chị Hsien Nghi A có cầm theo 01 túi xách để ở trước bụng. T nảy sinh ý định sẽ giật túi xách của hai người phụ nữ này nên điều khiển xe bám theo sau. Khi thấy hai người phụ nữ di chuyển qua bùng binh Cầu Ông Đạo đến đường Trần Quốc Toản, phường 3, Đà Lạt, hướng về Quảng trường Big C, T điều khiển xe máy áp sát về hướng bên tay phải của hai người phụ nữ. Tiếp đó, T dùng tay trái giật lấy túi xách phía trước bụng của chị Hsien Nghi A rồi nhanh chóng tăng tốc tẩu thoát. Sau khi chiếm đoạt được túi xách, T mang về phòng trọ tại số A, Phường B, Đà Lạt mở ra kiểm tra thì thấy có 01 mắt kính màu đen, 01 chiếc bóp da màu đen, 01 hộp sơn móng tay, 1.000.000 đồng và các giấy tờ tùy thân của chị Nghi A. T mang túi xách vải và bóp vứt ở thùng rác chợ Chi Lăng, phường 9, Đà Lạt, các Tài sản còn lại T cất vào tủ trong phòng trọ. Số tiền mặt trộm cắp được T tiêu xài hết 300.000đ, còn lại 700.000đ T cất giữ trên người. Sau khi bị giật túi xách, chị Hsien Nghi A đến Công an phường 3, Đà Lạt trình báo sự việc.

Tại kết luận định giá số 272/KL- ĐG ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá Tài sản trong tố tụng hình sự Đà Lạt xác định:

- 01 (một) mắt kính màu đen, gọng kính bằng nhựa màu đen, nhãn hiệu SAINT LAURENT có giá 3.000.000đ (ba triệu đồng);

- 01 giỏ sách màu đen, có quai đeo bằng vải không có giá trị định giá.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) mắt kính màu đen, gọng kính bằng nhựa màu đen, hiệu SAINT LAURENT; 01 thẻ thành viên Vietnam Airlines (Lotusmiles Gold); 01 thẻ căn cước công dân số 079195003696 mang tên Hsien Nghi A; 01 thẻ ngân hàng Sacombank Visa mang tên Hsien Nghi A; 01 thẻ ngân hàng Sacombank Car Card mang tên Hsien Nghi A; 01 hộp sơn móng tay màu hồng, nhãn hiệu LUX; số tiền 700.000 đồng. Các vật chứng này Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Hsien Nghi A.

Vật chứng thu giữ của bị cáo Lê Sỹ T, chuyển sang cơ quan thi hành án thanh phố Đà Lạt ngày 11/3/2021 gồm: 01 căn cước công dân số 03820400487 mang tên Lê Sỹ T; 01 áo phao màu đỏ.

Tại Bản cáo trạng số 60/CT-VKS ngày 10/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt đã truy tố bị cáo Lê Sĩ T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu quan điểm vụ án giữ nguyên bản cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 91, 98, 101 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù về tội “cưới giật tài sản” và 06 đến 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả 02 tội là 42 đến 51 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại Tài sản và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân số 03820400487 mang tên Lê Sỹ T và 01 áo phao màu đỏ.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Đề nghị xem xét nhân thân của bị cáo, bị cáo là vị thành niên phạm tội, bản thân bị cáo vào Đà Lạt sống chung với bố, nhưng do bị cáo thường xuyên bị bố mắng không có lý do, vì vậy chuyển ra ở riêng không được sự chăm sóc, quan tâm của gia đình nên đề nghị xem xét cho bị cáo hưởng án treo đối với tội “trộm cắp tài sản”, còn đối với tội “cướp giật tài sản” thì xin cho bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Bị cáo không khiếu nại bản cáo trạng, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ.

Đại diện hợp pháp của bị cáo: Xin xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để bị cáo sớm trở về làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét thấy tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, cấm mọi hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác trái pháp luật nhưng do muốn có tiền tiêu xài bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt xe máy của anh Th có giá trị 3.500.000đ. Bị cáo đã sử dụng chính chiếc xe trộm cắp được làm phương tiện thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Hsien Nghi A có giá trị 4.000.000đ.

Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “cướp giật tài sản” và “trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng của viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nên cần áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi và hậu quả bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo khỏi cuộc sống cộng đồng một thời gian nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình cũng cần xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng cho bị cáo Điều 90, 91, 98, 101 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại người bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng: Vật chứng chuyển sang cơ quan thi hành án ngày 11/3/2021: 01 căn cước công dân số 03820400487 mang tên Lê Sỹ T; 01 áo phao màu đỏ là giấy tờ tùy thân và là tài sản của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Sĩ T phạm tội “cướp giật tài sản” và “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171 và khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 90, 91, 98, 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Sĩ T 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “cướp giật tài sản” và 06 (sáu) tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2020.

Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên trả lại cho bị cáo Lê Sĩ T 01 (một) thẻ căn cước công dân số 03820400487 mang tên Lê Sỹ T; 01 (một) áo phao màu đỏ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong (theo biên bản giao, nhận vật chứng sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt ngày 11/3/2021).

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Sĩ T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về