Bản án 78/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 52/2019/HSST ngày 18/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 778/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Hoàng P, sinh năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 255/6/7/41A N.T.T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 4/1C ấp Bàu Tre, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hoàng V và bà Nguyễn Thị Ngọc B; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam từ ngày 03/02/2018. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Vũ Anh Tuấn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Võ Hoàng P. (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Thanh T, sinh năm: 1983; trú tại: 131 Đ.M, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 03/02/2018, tại Phòng 301, khách sạn Duy Hưng, số 220 Nguyễn Xí, Phường 26, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Phường 26, quận Bình Thạnh kiểm tra hành chính, phát hiện, bắt quả tang Võ Hoàng P đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, thu giữ tại vị trí sát tường phải cách nhà vệ sinh khoảng 01m có 01 nồi đất chứa chất bột màu hồng nhạt, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 248,88g loại Ketamine; tại lỗ thông gió trên trần nhà vệ sinh có 01 gói nylon màu đen, bên trong chứa: 01 gói nylon chứa tinh thể màu xám, là ma túy ở thể rắn, khối lượng 56,6321g, loại Ketamine, 01 gói nylon chứa 201 viên nén tròn màu tím, là ma túy ở thể rắn, khối lượng 57,0421g loại Ketamine; 01 gói nylon chứa 50 viên nén màu xanh, là ma túy ở thể rắn, khối lượng 14,1176g, loại Ketamine; 05 viên nén hình tròn màu vàng, là ma túy ở thể rắn khối lượng 1,8289g loại Ketamine.

Tổng cộng là 378,5007g ma túy ở thể rắn loại Ketamine.

Ngoài ra còn thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, khối lượng 48,9265g; 01 gói nylon chứa 206 viên nén hình trái dâu màu hồng, khối lượng 80,6019g; 01 gói nylon chứa 23 viên nén màu vàng, khối lượng 19,3517g, kết quả giám định không tìm thấy chất ma túy.

Toàn bộ số ma túy bị thu giữ được giám định theo bản Kết luận giám định số 445/KLGĐ-H ngày 12/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Võ Hoàng P khai nhận: P quen biết với một người tên Nhật (chưa rõ lai lịch) và nhận ma túy từ Nhật bán cho người khác để hưởng tiền chênh lệch, P đã thực hiện được 02 lần, mỗi lần thu lợi được 500.000 đồng. Khoảng 05 giờ ngày 03/02/2018, P đang chơi Game ở gần bến xe Miền Đông thì Nhật điện thoại cho P ra cổng số 02 Bến xe Miền Đông, giao cho P 01 bịch ma túy và nói trong bịch có khoảng 500 viên thuốc lắc, ma túy “khay” cùng khuôn làm viên thuốc lắc và một số ma túy kém chất lượng. Nhật nhờ P bán giá 6.000.000 đồng, bán được sẽ cho P 2.000.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, P đến khách sạn Duy Hưng, thuê phòng 301 cất giấu ma túy mà Nhật đưa trên lỗ thông gió trần nhà vệ sinh, khuôn làm viên thuốc lắc để trên sàn nhà. Còn một hộp 5 ma túy “khay” P mua của một người tên Dũng (không rõ lai lịch) lúc 03 giờ cùng ngày 03/02/2018 rồi đem trộn vào chất bột trong nồi đất mua từ trước để trên sàn nhà gần nhà vệ sinh. P dùng điện thoại nhắn tin chào bán ma túy cho nhiều người nhưng chưa bán được, đến khoảng 23 giờ ngày 03/02/2018 thì bị kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 giấy chứng minh nhân dân số 023632865 mang tên Lê Thanh T, sinh ngày 14/6/1983, do P sử dụng để thuê phòng 301 Khách sạn Duy Hưng. P khai nhặt được CMND trên tại tiệm Game, Lê Thanh T xác nhận bị mất giấy CMND này (không nhớ rõ thời gian, địa điểm bị mất), T chưa xin cấp giấy CMND mới.

Tại bản Cáo trạng số 29/CTr-VKS-P1 ngày 14/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Võ Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm e khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Hoàng P khai nhận: về nội dung sự việc, diễn biến các hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Võ Hoàng P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Võ Hoàng P 20 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đến 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha đã chết, mẹ đã già, số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra xã hội; nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Bị cáo Võ Hoàng P thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Đối đáp lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng luật sư thống nhất về tội danh và điều luật truy tố, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Hoàng P không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Hoàng P đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… nên đã có đủ cơ sở xác định: vì muốn có tiền tiêu sài, nên Võ Hoàng P đã nhiều lần nhận ma túy từ một đối tượng tên Nhật và mua ma túy của đối tượng tên Dũng (không rõ lai lịch) đem về cất giữ để bán cho người khác nhằm kiếm lời. Ngày 03/02/2018, khi bị cáo đang cất giấu tổng cộng 378,5007gam ma túy ở thể rắn loại Ketamine tại Phòng 301 Khách sạn Duy Hưng, số 220 Nguyễn Xí, Phường 26, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh để bán cho người khác thì bị khám xét, bắt quả tang cùng tang vật (theo bản Kết luận giám định số 445/KLGĐ-H ngày 12/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Với các hành vi như trên, xét đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Võ Hoàng P phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm e khoản 4 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện viện kiểm sát và các luật sư bào chữa cho bị cáo đã đề cập như: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha mất sớm, mẹ đã già, toàn bộ số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội; nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với đối tượng tên Nhật là người đưa ma túy cho P bán và đối tượng tên Dũng là người bán ma túy cho P, do P khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các gói ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và các vật chứng gồm: nồi đất màu đen, khối kim loại hình trụ, khối kim loại hình cầu, thanh kim loại, là những vật dụng không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia bị cáo dùng để liên lạc nhận ma túy và mua ma túy là công cụ, P tiện dùng vào việc phạm tội nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2015 tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân số 023632865 mang tên Lê Thanh T, sinh ngày 14/6/1983, do P sử dụng để thuê phòng 301 Khách sạn Duy Hưng, P khai nhặt được tại tiệm Game, Lê Thanh T xác nhận bị mất giấy CMND này (không nhớ rõ thời gian, địa điểm bị mất), T chưa xin cấp giấy CMND mới. Do CMND này T bị mất, T không biết việc P dùng để sử dụng vào việc thuê phòng nên cần tách ra khỏi hồ sơ vụ án, trả lại cho Lê Thanh T.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Hoàng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Võ Hoàng P 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/02/2018.

Buộc bị cáo phải nộp 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 gói niêm phong đựng chất ma túy sau giám định, có chữ ký của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Nguyễn Anh Tấn Dũng, số 445/18 (1), 445/18 (2); 01 nồi đất màu đen; 03 khối kim loại hình trụ, 01 khối kim loại hình cầu, 02 thanh kim loại.

- Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di dộng Nokia, số Imei: 357295084642342.

- Tách ra khỏi hồ sơ vụ án, trả lại cho Lê Thanh T 01 giấy chứng minh nhân dân số 023632865 mang tên Lê Thanh T, sinh ngày 14/6/1983.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 157/19 ngày 22/01/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; riêng CMND hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về