Bản án 78/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Nhà văn hóa thôn B, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Thị Đ, sinh ngày 10 tháng 02 năm 1993, tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa 08/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn C, sinh năm 1965 và bà Hứa Thị T, sinh năm 1965; chồng, con chưa có ; tiền án, tiền sự không có; bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 10 tháng 7 năm 2019 đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Bà Hứa Thị T, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Hoàng Văn T1, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Anh Hoàng Văn T2, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

3. Ông Lương Văn C, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

4. Ông Nguyễn Khắc T3, sinh năm 1956. Địa chỉ: Khu A, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

5. Anh Trần Quốc T4, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn A, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

6. Anh Phạm Bá V, sinh năm 1986. Địa chỉ: Khu A, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

7. Ông Vi Văn M, sinh năm 1962. Địa chỉ: Thôn H, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

8. Anh Lương Văn S, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

9. Anh Lương Quốc Đ, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

10. Chị Nông Thị M, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Hứa Thị T, sinh năm 1965, trú tại thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn có nghề làm then. Các thu nhập có được từ công việc này, bà cho vào chiếc két sắt ở trong phòng ngủ để cất giữ. Quá trình điều tra, lấy lời khai của các thành viên trong gia đình đã làm rõ, toàn bộ số tài sản, giấy tờ có trong két sắt là tài sản riêng của bà T, không có tài sản của người khác. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 10 tháng 7 năm 2019, sau khi biết mẹ đẻ là bà T đi ăn cỗ ở tỉnh B không có nhà, ở nhà chỉ có bố đẻ là ông Lương Văn C tinh thần không minh mẫn, Lương Thị Đ đã nảy sinh ý định trộm tiền cất trong két sắt của bà T. Do không có chìa khóa mở két, Đ gọi điện thoại cho Hoàng Văn T1 làm nghề xe ôm, thuê Hoàng Văn T1 chở két đi sửa. Do két nặng không vận chuyển được, Hoàng Văn T1 nói phải gọi taxi. Do Đ nhờ nên Hoàng Văn T1 đã gọi điện thoại cho Hoàng Văn T2, là lái xe taxi để vào chở két. Hoàng Văn T2 đồng ý. Để không bị nghi ngờ, Đ nói với ông C, T1 và T2 là két bị hỏng, mẹ nhờ mang đi sửa, rồi cùng ông C, T1 và T2 khiêng chiếc két lên xe taxi rồi mang ra thị trấn H. Trên đường đi, Đ bảo T2 tìm chỗ nào sửa két, nếu không sửa được thì phá. T2 chở Đ đến quán cơ khí của ông Nguyễn Khắc T3 ở khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thuê ông Nguyễn Khắc T3 phá két. Sau khi phá két xong, Đ lấy toàn bộ tiền, vàng và các giấy tờ, đồ vật ở bên trong cho vào 01 túi xách giả da màu đen mang theo từ trước, rồi lấy 50.000 đồng trả công cho ông Nguyễn Khắc T3. Đ để lại chiếc két ở quán cơ khí rồi đi taxi của T2 ra quán N T ở ngã tư Quốc lộ 1A thuộc thôn A, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Đ trả cho T2 400.000 đồng tiền taxi, đồng thời đưa thêm cho T2 100.000 đồng nhờ T2 đưa cho T1 để trả nợ tiền xe ôm trước đó và tiền công khiêng két.

Tại quán N T, Đ uống nước hết 10.000 đồng và mua 02 thẻ nạp điện thoại hết 200.000 đồng. Sau đó Đ thuê xe taxi của anh Trần Quốc T4, trú tại thôn A, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn đi mua sắm tư trang, chi tiêu cá nhân, cụ thể: Mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ với giá 3.500.000 đồng, 01 sim điện thoại 200.000 đồng, đồng thời để lại 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5 để sửa, tại cửa hàng điện thoại của anh Phạm Bá V ở khu A, thị trấn H; mua quần, áo, váy, guốc hết tổng cộng 1.410.000 đồng tại chợ thị trấn H; mua 01 dây chuyền vàng, 01 đôi hoa tai vàng hết tổng cộng 13.000.000 đồng tại cửa hàng vàng bạc K H của bà Lê Thị T5 ở khu A, thị trấn H; trả tiền nhà nghỉ ở thành phố B hết 110.000 đồng; mua 01 túi giả da màu xanh; 01 gậy chụp ảnh màu đen hết tổng cộng 230.000 đồng ở siêu thị B C tỉnh B.

Sau khi mua sắm xong, Đ bảo Trần Quốc T4 chở về nhà em gái là Lương Thị H ở thôn H, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, mục đích để đưa một phần số tài sản trộm cắp được cho Hương, để Hương mang về trả lại cho bà T. Trên đường về, Đ chuyển 48.771.000 đồng trong số tiền trộm cắp sang chiếc túi xách giả da mới mua, mục đích để mua xe máy. Khoảng 17 giờ cùng ngày, đến nhà Lương Thị H nhưng Lương Thị H không ở nhà, Đ đưa chiếc túi xách giả da màu đen bên trong đựng 177.950.000 đồng, cùng toàn bộ số vàng, giấy tờ, đồ vật trộm được đưa cho ông Vi Văn M - là bố chồng của Lương Thị H, nhờ ông Vi Văn M đưa lại cho Lương Thị H. Sau đó, Đ tiếp tục đi xe taxi của Trần Quốc T4 ra thị trấn H. Khi đến khu vực thôn A, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện H bắt, thu giữ 48.771.000 đồng, 01 sợi dây chuyền, 02 hoa tai bằng kim loại màu vàng cùng nhiều tài sản, vật chứng khác có liên quan. Chiều cùng ngày, cơ quan điều tra đã tạm giữ tại nhà ông Vi Văn M 01 túi xách giả da màu đen, có quai đeo, bên trong có 177.950.000 đồng; 06 nhẫn kim loại màu vàng; 02 lắc tay bằng kim loại màu vàng; 05 hộp nhựa màu cam; 01 hộp nhựa màu hồng; 01 tờ giấy hướng dẫn mở két; 02 sổ tiết kiệm và 03 chứng từ giao dịch.

Quá trình điều tra, những người liên quan đã giao nộp cho cơ quan điều tra những vật chứng, tài sản sau: Ông Nguyễn Khắc T3 giao nộp 01 chiếc két sắt đã bị cắt phá mà Đ để lại quán nhà ông và 50.000 đồng do Đ trả công phá két; anh Hoàng Văn T2 giao nộp 400.000 đồng; anh Hoàng Văn T1 giao nộp 100.000 đồng; anh Phạm Bá V giao nộp cho cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 222/KLGĐ-PC09 ngày 06/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền 226.721.000 đồng bao gồm 48.771.000 đồng thu giữ của Lương Thị Đ và số tiền 177.950.000 đồng thu giữ tại nhà ông Vi Văn M đều là tiền thật.

Tại bản kết luận giám định số 4194/C09-P4 ngày 05/8/2019 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an và bản kết luận định giá tài sản ngày 10/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận: 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn khắc chữ và số “K H 9999” có khối lượng 7,48 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,85% có giá: 7.400.000 đồng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn khắc chữ và số “K H 999 2” có khối lượng 7,50 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,85% có giá: 7.400.000 đồng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt trong nhẫn khắc chữ và số “K H 24K-2 CHỈ” có khối lượng 7,50 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,85% có giá: 7.400.000 đồng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt nhẫn hình vuông, in họa tiết hoa văn không xác định, mặt ngoài nhẫn khắc chữ “HỢP” có khối lượng 7,49 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,89% có giá: 7.400.000 đồng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt nhẫn hình vuông, in họa tiết hoa văn không xác định, mặt ngoài nhẫn khắc chữ “TM” có khối lượng 3,74 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,89% có giá: 3.700.000 đồng; 01 nhẫn kim loại màu vàng, mặt nhẫn hình vuông, in họa tiết hoa văn không xác định, mặt ngoài nhẫn khắc chữ và số “2C” có khối lượng 7,49 gam, là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,89% có giá: 7.400.000 đồng; 01 lắc tay kim loại màu vàng, mặt ngoài in họa tiết hoa văn, mặt trong khắc chữ và số “TM HAI H.A 2”, bên trong lắc có gắn xi, phần kim loại màu vàng bọc ngoài lắc tay là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,64% có giá: 7.400.000 đồng; 01 lắc tay kim loại màu vàng, mặt ngoài in họa tiết hoa văn, mặt trong khắc chữ và số “TN 9999 30 BA CHỈ”, bên trong lắc có gắn xi, phần kim loại màu vàng bọc ngoài lắc tay là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,64% có giá 11.100.000 đồng; 01 dây chuyền kim loại màu vàng chế tác dạng các mắt xích nối với nhau, mặt dây chuyền chữ C, lồng vào nhau có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 7,67 gam (tính cả khối lượng đá) là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,81%; 02 chiếc hoa tai kim loại màu vàng, chế tác dạng vòng tròn móc với 02 dây xích ngắn gắn với 01 quả cầu nhỏ, tổng khối lượng 3,75 gam là vàng (Au), hàm lượng trung bình 99,83%. Dây chuyền và 02 hoa tai, Đ khai mua tại cửa hàng K H với giá 13.000.000 đồng.

Quá trình điều tra làm rõ: Số tiền 226.721.000 đồng; 06 nhẫn vàng; 02 lắc tay vàng; 01 tờ giấy hướng dẫn mở két kích thước 9,5cm x 6,8cm; 02 sổ tiết kiệm có kỳ hạn của Ngân hàng AGRIBANK, trong đó 01 sổ số AC 00008926399, 01 sổ số 00014071992; 03 giấy chứng từ giao dịch của Ngân hàng AGRIBANK có các số lần lượt là: 04190093000072; 04120070000107 và 05080086000073 mà bị cáo trộm cắp thuộc sở hữu của bà Hứa Thị T. Sau khi làm rõ, ngày 14 tháng 8 năm 2019 và ngày 24 tháng 9 năm 2019, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại toàn bộ tài sản, giấy tờ nêu trên cho bà Hứa Thị T.

Vật chứng hiện còn tạm giữ gồm 05 hộp nhựa màu cam trong đó 04 hộp cùng có đường kính 3,6cm, 01 hộp có đường kính 05cm, trên mặt hộp có in họa tiết hoa văn và chữ “vàng bạc đá quý”; 01 hộp nhựa màu hồng có đường kính 8,6cm, bên ngoài vỏ hộp một mặt in hoa văn có in chữ “vàng bạc đá quý” thuộc sở hữu của bà Hứa Thị T, để trong két sắt; 01 chiếc két sắt nhãn hiệu V T do ông Nguyễn Khắc T3 giao nộp thuộc sở hữu của bà Hứa Thị T, Lương Thị Đ đã lấy trộm và mang đi phá; 02 thẻ điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ, số IMEI 1: 534395, số IMEI 2:534387, bên trong có lắp sim Viettel trên sim có các dãy số 8984, 04800, 00487; 01 củ sạc kèm theo 01 dây sạc; 01 quần soóc bò màu xanh; 01 quần dài bò màu xanh; 01 váy màu vàng liền thân; 01 áo lót nữ màu vàng; 01 áo lót nữ sáng màu; 01 áo cộc tay màu nâu; 01 bộ quần áo ngủ màu tím than; 01 đôi guốc màu bạc đã qua sử dụng; 02 quần lót nữ (01 màu hồng, 01 màu đen); 01 váy liền thân kẻ sọc ngang đen trắng, đã qua sử dụng; 01 dây chuyền vàng chế tác; 02 chiếc hoa tai vàng chế tác; 01 túi giả da màu xanh, có quai đeo; 01 gậy chụp ảnh màu đen, đây là các tài sản Đ dùng số tiền trộm cắp được để mua mà có. Số tiền 550.000 đồng, các ông Nguyễn Khắc T3, Hoàng Văn T2 và Hoàng Văn T1 giao nộp là tiền Lương Thị Đ lấy trộm của bà T để trả công. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng Phạm Bá V giao nộp. 01 sim điện thoại Viettel có số thuê bao 0966530742 là của Lương Thị Đ, dùng để liên lạc hàng ngày và liên lạc với Hoàng Văn T1 để thuê chở két sắt mang đi phá. 01 túi xách giả da màu đen, túi có quai đeo, ngăn túi có khóa kéo là của Lương Thị Đ, dùng để đựng tiền, vàng và các giấy tờ, đồ vật đã lấy trộm.

Đối với số tiền 550.000 đồng, Hoàng Văn T2, Hoàng Văn T1 và Nguyễn Khắc T3 giao nộp cho cơ quan điều tra; 380.000 đồng tiền công sửa chiếc điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, 500.000 đồng tiền taxi mà Phạm Bá V và Trần Quốc T4 yêu cầu Đ phải trả, do bà T đã trả hộ Đ số tiền trên nên T1, T2, T3, V, T4 không còn yêu cầu đề nghị gì. Đối với số tiền bà T tự nguyện trả thay cho Đ, bà T không có yêu cầu đề nghị gì.

Như vậy, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã làm rõ, tổng trị giá tài sản Lương Thị Đ trộm cắp của bà Hứa Thị T là 305.631.000 đồng, bao gồm 245.931.000 đồng tiền mặt và 59.700.000 đồng giá trị tài sản. Trong số tiền mặt trộm cắp, cơ quan điều tra đã thu được 226.721.000 đồng, Lương Thị Đ đã dùng mua sắm tư trang và trả tiền công hết 19.210.000 đồng.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại bà Hứa Thị T đã nhận lại phần lớn tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu Lương Thị Đ phải bồi thường số còn lại và cũng không yêu cầu, đề nghị gì về số tiền bà Hứa Thị T tự nguyện trả thay cho bị cáo Lương Thị Đ.

Tại bản Cáo trạng số: 77/CT-VKSHL-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lương Thị Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lương Thị Đ giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra và khẳng định bị truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản là đúng.

Bị hại bà Hứa Thị T giữ nguyên yêu cầu, đề nghị trong quá trình điều tra, truy tố và bà không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173, điểm s khoan 1, khoản 2 Điêu 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Thị Đ từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo không có tài sản riêng.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc két sắt nhãn hiệu V T, phần cửa két sắt đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần ổ khóa đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần sau két có 01 miếng kim loại bị cắt dời, 01 miếng kim loại bị cắt 3 cạnh, phần mép cửa két sắt có nhiều vết lõm lộ kim; 01 túi xách giả da màu đen, túi có quai đeo, ngăn túi có khóa; 01 sim điện thoại Viettel có số thuê bao 0966530742; 01 củ sạc kèm theo 01 dây sạc; 01 quần soóc bò màu xanh; 01 quần dài bò màu xanh; 01 váy màu vàng liền thân; 01 áo lót nữ màu vàng; 01 áo lót nữ sáng màu; 01 áo cộc tay màu nâu; 01 bộ quần áo ngủ màu tím than; 01 đôi guốc màu bạc đã qua sử dụng; 02 quần lót nữ (01 màu hồng, 01 màu đen); 01 váy liền thân kẻ sọc ngang đen trắng, đã qua sử dụng; 01 gậy chụp ảnh màu đen; 01 túi xách giả da màu xanh, có quai đeo.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, số IMEI: 1726959, điện thoại có lắp ốp lưng bằng nhựa màu trắng trong suốt, đã qua sử dụng; 02 thẻ điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ, số IMEI 1: 534395, số IMEI 2: 534387, bên trong có lắp sim Viettel trên sim có các dãy số 8984, 04800, 00487; 01 dây chuyền bằng vàng chế tác dạng các mắt xích nối với nhau, mặt dây chuyền chữ C, lồng vào nhau có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 7,67 gam (tính cả khối lượng đá); 02 chiếc hoa tai bằng vàng chế tác dạng vòng tròn móc với 02 dây xích ngắn gắn với 01 quả cầu nhỏ, tổng khối lượng 3,75 gam.

Trả lại cho bà Hứa Thị T số tiền 550.000 đồng; 05 hộp nhựa màu cam trong đó 04 hộp cùng có đường kính 3,6cm, 01 hộp có đường kính 05cm, trên mặt hộp có in họa tiết hoa văn và chữ “vàng bạc đá quý”; 01 hộp nhựa màu hồng có đường kính 8,6cm, bên ngoài vỏ hộp một mặt in hoa văn có in chữ “vàng bạc đá quý”.

Phần tranh luận: Không ai có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo Lương Thị Đ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, những người làm chứng gồm ông Nguyễn Khắc T3, ông Vi Văn M, anh Trần Quốc T4, anh Phạm Bá V đều vắng mặt không có lí do. Nhưng trước đó họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, Kiểm sát viên, nhưng chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác cung cấp là hợp pháp.

[3] Bị cáo Lương Thị Đ đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 10 tháng 7 tháng 2019 tại thôn V, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, sau khi biết mẹ đẻ là bà Hứa Thị T đi ăn cỗ ở tỉnh B không có nhà, Lương Thị Đ đã có hành vi thuê xe taxi mang chiếc két sắt của bà Hứa Thị T ra thị trấn H để phá. Sau khi lấy được toàn bộ tiền, vàng, giấy tờ và đồ vật có trong két, Lương Thị Đ cho toàn bộ vào chiếc túi xách giả da màu đen, sau đó đi mua sắm và tiêu xài cá nhân. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ toàn bộ số tài sản, giấy tờ, đồ vật có trong két sắt là tài sản riêng của bà Hứa Thị T. Tổng trị giá tài sản Lương Thị Đ trộm cắp của bà Hứa Thị T đã làm rõ là 305.631.000đ (Ba trăm linh năm triệu sáu trăm ba mươi mốt nghìn đồng). Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lương Thị Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Lương Thị Đ là nguy hiểm cho xã hội, hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vì lười lao động lại muốn có tiền chi tiêu cá nhân, coi thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bà Hứa Thị T cũng chính là mẹ đẻ của bị cáo. Do vậy, bị cáo phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện.

[5] Tuy nhiên ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Lương Thị Đ không có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, giữa bị cáo và bị hại có quan hệ mẹ con trong gia đình.

[7] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[8] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Lương Thị Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu phạm tội; bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và tại phiên tòa cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoan 1, khoản 2 Điêu 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo Lương Thị Đ ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, nhằm răn đe, giáo dục cho chính bị cáo và phòng ngừa chung cho những ai còn có hành vi tương tự.

[10] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Lương Thị Đ không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [11] Đối với ông Hoàng Văn T1, anh Hoàng Văn T2 và ông Lương Văn C, là những người đã hộ Lương Thị Đ khiêng két lên xe taxi, trong đó ông Hoàng Văn T1, anh Hoàng Văn T2 được Lương Thị Đ trả tiền công, không biết Lương Thị Đ mang két đi phá để trộm cắp tài sản; đối với ông Nguyễn Khắc T3 là người được Lương Thị Đ thuê phá két sắt, anh Trần Quốc T4 lái xe taxi chở Lương Thị Đ, ông Vi Văn M cất giữ hộ Lương Thị Đ chiếc túi xách đựng tài sản trộm cắp; anh Phạm Bá V bán điện thoại và sim cho Lương Thị Đ, do không biết hành vi phạm tội của Lương Thị Đ nên không đặt vấn đề xử lý, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[13] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Xét thấy tại phiên tòa, bị hại bà Hứa Thị T xác nhận đã nhận lại phần lớn tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu Lương Thị Đ phải bồi thường thiệt hại số tài sản còn lại và cũng không yêu cầu, đề nghị gì về số tiền bà Hứa Thị T tự nguyện trả thay cho bị cáo Lương Thị Đ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[13] Đối với số tiền 550.000 đồng, Hoàng Văn T2, Hoàng Văn T1 và Nguyễn Khắc T3 giao nộp cho cơ quan điều tra; số tiền 380.000 đồng tiền công sửa chiếc điện thoại di động Iphone 5 màu trắng, 500.000 đồng tiền taxi mà anh Phạm Bá V và anh Trần Quốc T4 yêu cầu Lương Thị Đ phải trả, do bà Hứa Thị T đã trả hộ Lương Thị Đ số tiền trên nên anh Hoàng Văn T2, anh Hoàng Văn T1, anh Nguyễn Khắc T3, anh Phạm Bá V, anh Trần Quốc T4 không còn yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự. Đối với số tiền bà Hứa Thị T tự nguyện trả thay cho Lương Thị Đ, bà Hứa Thị T cũng không có yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.

[14] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần tịch thu tiêu hủy 01 chiếc két sắt nhãn hiệu V T, phần cửa két sắt đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần ổ khóa đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần sau két có 01 miếng kim loại bị cắt dời, 01 miếng kim loại bị cắt 3 cạnh, phần mép cửa két sắt có nhiều vết lõm lộ kim; 01 túi xách giả da màu đen, túi có quai đeo, ngăn túi có khóa; 01 sim điện thoại Viettel có số thuê bao 0966530742; 01 củ sạc kèm theo 01 dây sạc; 01 quần soóc bò màu xanh; 01 quần dài bò màu xanh; 01 váy màu vàng liền thân; 01 áo lót nữ màu vàng; 01 áo lót nữ sáng màu; 01 áo cộc tay màu nâu; 01 bộ quần áo ngủ màu tím than; 01 đôi guốc màu bạc đã qua sử dụng; 02 quần lót nữ (01 màu hồng, 01 màu đen); 01 váy liền thân kẻ sọc ngang đen trắng, đã qua sử dụng; 01 gậy chụp ảnh màu đen; 01 túi xách giả da màu xanh, có quai đeo, có liên quan đến hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, số IMEI: 1726959, điện thoại có lắp ốp lưng bằng nhựa màu trắng trong suốt, đã qua sử dụng; 02 thẻ điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ, số IMEI 1: 534395, số IMEI 2: 534387, bên trong có lắp sim Viettel trên sim có các dãy số 8984; 04800; 00487; 01 dây chuyền bằng vàng chế tác dạng các mắt xích nối với nhau, mặt dây chuyền chữ C, lồng vào nhau có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 7,67 gam (tính cả khối lượng đá, đã niêm phong trong một phong bì dán kín có dấu và chữ ký của các thành phần niêm phong); 02 chiếc hoa tai bằng vàng chế tác dạng vòng tròn móc với 02 dây xích ngắn gắn với 01 quả cầu nhỏ, tổng khối lượng 3,75 gam (đã niêm phong trong một phong bì dán kín có dấu và chữ ký của các thành phần niêm phong), có liên quan đến hành vi phạm tội và còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bà Hứa Thị T số tiền 550.000 đồng; 05 hộp nhựa màu cam trong đó 04 hộp cùng có đường kính 3,6cm, 01 hộp có đường kính 05cm, trên mặt hộp có in họa tiết hoa văn và chữ “vàng bạc đá quý”; 01 hộp nhựa màu hồng có đường kính 8,6cm, bên ngoài vỏ hộp một mặt in hoa văn có in chữ “vàng bạc đá quý” là các tài sản của bà Hứa Thị T, không liên quan đến hành vi phạm tội như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ.

[15] Về án phí: Bị cáo Lương Thị Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[16] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 173, điểm s khoan 1, khoản 2 Điêu 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 293, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Thị Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương Thị Đ 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 7 năm 2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc két sắt nhãn hiệu V T, phần cửa két sắt đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần ổ khóa đã bị bật khỏi vị trí cố định, phần sau két có 01 miếng kim loại bị cắt dời, 01 miếng kim loại bị cắt 3 cạnh, phần mép cửa két sắt có nhiều vết lõm lộ kim; 01 túi xách giả da màu đen, túi có quai đeo, ngăn túi có khóa; 01 sim điện thoại Viettel có số thuê bao 0966530742; 01 củ sạc kèm theo 01 dây sạc; 01 quần soóc bò màu xanh; 01 quần dài bò màu xanh; 01 váy màu vàng liền thân; 01 áo lót nữ màu vàng; 01 áo lót nữ sáng màu; 01 áo cộc tay màu nâu; 01 bộ quần áo ngủ màu tím than; 01 đôi guốc màu bạc đã qua sử dụng; 02 quần lót nữ (01 màu hồng, 01 màu đen); 01 váy liền thân kẻ sọc ngang đen trắng, đã qua sử dụng; 01 gậy chụp ảnh màu đen; 01 túi xách giả da màu xanh, có quai đeo. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, số IMEI: 1726959, điện thoại có lắp ốp lưng bằng nhựa màu trắng trong suốt, đã qua sử dụng; 02 thẻ điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ, số IMEI 1:534395, số IMEI 2: 534387, bên trong có lắp sim Viettel trên sim có các dãy số 8984; 04800; 00487; 01 dây chuyền bằng vàng chế tác dạng các mắt xích nối với nhau, mặt dây chuyền chữ C, lồng vào nhau có gắn nhiều viên đá nhỏ không màu, có tổng khối lượng 7,67 gam (tính cả khối lượng đá, đã niêm phong trong một phong bì dán kín có dấu và chữ ký của các thành phần niêm phong); 02 chiếc hoa tai bằng vàng chế tác dạng vòng tròn móc với 02 dây xích ngắn gắn với 01 quả cầu nhỏ, tổng khối lượng 3,75 gam (đã niêm phong trong một phong bì dán kín có dấu và chữ ký của các thành phần niêm phong).

Trả lại cho bà Hứa Thị T số tiền 550.000 đồng; 05 hộp nhựa màu cam trong đó 04 hộp cùng có đường kính 3,6cm, 01 hộp có đường kính 05cm, trên mặt hộp có in họa tiết hoa văn và chữ “vàng bạc đá quý”; 01 hộp nhựa màu hồng có đường kính 8,6cm, bên ngoài vỏ hộp một mặt in hoa văn có in chữ “vàng bạc đá quý”.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 11 năm 2019 và ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số: 24, ngày 11 tháng 11 năm 2019 giữa Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Lương Thị Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về